CHÀO MỪNG

Chào mừng bạn đến với blog Học Văn của học sinh trường THPT Chuyên Lê Quý Đôn Bình Định - Mọi thông tin liên hệ, đóng góp bài vở, xin gửi về vankhoa11@gmail.com hoặc liên hệ trực tiếp với lớp trưởng Chuyên Văn khoá 11 Đỗ Lê Bảo Duyên - LPHT Trần Thái Diễm Chi

Thứ Bảy, 5 tháng 12, 2009




Cung Oán Ngâm Khúc là một bi khúc về nỗi lòng của Nguyễn Gia Thiều (1741-1798). Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã mượn lời cung nữ để ví thân mình qua 356 câu thơ vừa thất ngôn vừa lục bát, dàn trải một tâm lý thao thức,một nội tâm oằn oại như lời tự thán cho chính mình,giữa một xã hội mà tiên sinh sống và gánh chịu, không nói nên lời. Đọc hai chữ cung oán ta thấy được nỗi ngậm ngùi của cung tần mỹ nữ mà mỗi khi được tiến cử vào cung vua,có phải đó là ơn sủng hạnh phúc hay là một hiến dâng. Mà sự hiến dâng đó có được trọng đãi dài lâu hay chỉ một cuộc giải quyết nhất thời của đấng quân vương và rồi đây hóa thân kiếp đời chim lồng cá chậu ở cửu trùng ? Âu đó là thân phận ray rứt của Ôn Như Hầu tiên sinh.Cho nên người cung nữ mang nặng tâm tư hờn oán vì bị chối bỏ tài sắc mà không được hưởng ơn mưa móc,nhiều cung nhân ôm nỗi đau viết ra lời cung oán,hoặc các nhà thơ đặt ra lời cung oán,muợn lời cung nữ mà tỷ nghĩ thân phận mình nhất là các công thần cùng một nỗi niềm tương tợ như cung tần,nói lên sự oán hờn đối xử vua tôi,một tình đời chua cay tục vị nếm mùi tân khổ,nghĩ đến cái thân phận phù thế mà đau đớn lòng:

Khóc vì nỗi đau sự thế
Ai bày trò bãi bể nương dâu*

Đó là vấn đề thuộc phạm trù triết học nhân sinh,thuộc vũ trụ quan,vũ trụ hiện hữu như thế nào, đó là chuyện của con người và của mỗi một con người.Tâm trạng đau đớn và uất nghẹn chính là thảm kịch nội tại. Ôn tiên sinh gắn bó tâm trạng mình trong tâm trạng cung phi là một tâm trạng phản kháng nội tại giữa người với người,từ chỗ tự trách phận mình hẩm hiu bị lu mờ trước long nhan hay do sự sắp xếp của những tay cận thần dùng thủ đọan trù dập hoặc đặt điều xấu tốt,rồi biến mình trong cái vũ trụ cô đơn,bản thể đắm chìm trong thế giới biệt lập đó là tâm tư của cung nữ là tâm tư của Nguyễn tiên sinh.Người tự cho mình như Khuất Nguyên nước Sở ngày xưa,có tài mà không trọng tài,ngược lại còn đem lòng dèm pha,bôi bác,miệt thị đi tới lãng quên từ những thương mong đó đem lại sự phẩn uất nội tại và được cởi trói tâm thức qua một vai trò tha nhân khác nói lên nỗi đắng cay thân phận làm người.Tuy nhiên sự oán ở đây là sự oán của chính mình,oán để xoa dịu tâm thức vị tha,hợp lẽ tu thân xữ thế đạo luân thường.Cung oán là niềm đau thầm kín,oán mà không giận(oán nhi bất nộ) oán mà vẫn giữ được lòng trung trinh với đạo vua tôi, để hưng khởi cho chính mình.Cái “khả dỉ hưng”nói lên cái hưng-khởi-chí-khí của chính mình mà hiện hữu với hữu thể đưa lại trạng thái tâm linh,dù có được bao che,phong gấm rũ là cũng như Nguyễn Gia Thiều tiên sinh,tài sắc văn võ kiêm toàn mà quân vương có đoái hoài cho chăng? Hay vua đã lãng quên mình? Đó là nghi vấn nội tại đối với tiên sinh:

Tài sắc đã vang lừng trong nước
Bướm ong càng xao xác ngoài hiên

Nhưng nghĩ cho cùng,cuộc đời là phong ba là đớn đau nhân thế,cái thân trôi nổi ở cõi đời này là phù thế.”Phù thế giáo một vài câu thanh nghị”(Nguyễn Công Trứ)như bèo bọt trong bể khổ lênh đênh không còn một tia sáng cho tương lai:

Gót danh lợi bùn pha sắc xám
Mặt phong trần nắng nám mùi dâu
Nghĩ thân phù thế mà đau
Bọt trong bể khổ bèo đầu bến mê

Suốt đời sống trong khiêm tốn,khép mình dưới trướng vẫn luôn luôn “mơ về” cõi sáng để chứng minh lòng trung trinh cao cả, thế nhưng phải ôm gối chiếc chốn the phòng hay lạc lõng giữa cửa quan trường;thì chính trong cái giấc mơ về với cuộc đời đã có ngay cái chết của cuộc đời.Tất nhiên đó là cái nhìn chủ thể của cung nữ về cuộc đời mà mỗi khi đi vào đời với những dự phóng khác nhau nhưng đã mang thân phận cung tần thì điều đó không thoát khỏi phủ phàng của đời cũng như sự tàn tạ, đìu hiu của số phận mà Ôn tiên sinh phải cam tâm gánh chịu với đời…

Nếu qui định số phận giữa cuộc đời của Nguyễn tiên sinh thì tất cả cái nhìn biên giới của số phận được thấy rõ: vào đời;không thấy đời mà thấy một lối khép đời và chỉ thấy ngõ cụt trước mắt mà thời gian âm thầm trôi và tàn phá.Tất cả cái “thương mong” đó chính là tự thương cho số kiếp cũng là thương cho thân phận làm người mà không bao giờ mình bằng lòng về số phận đó cả.Thành ra bao nhiêu thương mong là “thương về sau” nghĩa là thương nhận như lỡ nhận mà điều ấy vốn đã là giấc mộng không có không gian và thời gian thể hiện. Đó là nỗi đau hiện hữu của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, đó là nỗi buồn tàn tạ, đìu hiu của cung nữ.Hiện hữu như thế là không đáng sống mà đành phải sống trong cái vô-nghĩa-lý-sống;sống để trả cho xong cái gọi là túc-trái-tiền-nhân.
Vì thế trong Cung Oán Ngâm Khúc có hai đối tượng của TA.Ta cuộc đời của cung nữ là hủy hoại,chôn vùi.Ta của Ôn Như Hầu là tàn tạ,bôi bác.Tuy hai cõi sống khác nhau nhưng là một vì trong tương quan ấy ta hằng hiến dâng tất cả tâm hồn đích thực nghĩa là của một tự thế còn nguyên hương, ý nghĩa của một tấm lòng tuyệt đối, một ngọn lửa muốn soi sáng cho cuộc đời có tương quan giữa hai nỗi lòng cùng có một tâm tư khắc khoải. Đó là thương mong nhưng thực thể của cuộc đời là gì? Là phù du là bả vinh hoa mà vinh hoa là thuốc độc làm mồi lợi danh và hại cho kẻ công-khanh.Tất cả cái bả vinh hoa đó là mộng đưa tới lãng quên là “bất tình” chỉ còn lại bàn tay rỗng !

Giấc Nam Kha khéo bất tình
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không
Sân đào lý giâm hồng man mác
Nên đỉnh chung nguyệt gác mơ màng
Cánh buồm bể hoạn thênh thang
Cái phong ba khéo cợt phường lợi danh

Cuộc đời chỉ làm bằng những sự đã rồi,cung nữ cũng như sự đã rồi của an bài định mệnh và cái gì đã rồi là hiện hữu u-buồn,hiện hữu cô-tịch;mất tương quan thì không còn gì để cứu vãng được nữa.Con người có một ý thức về số mệnh về thân phận chung để thấy rằng không còn đợi gì được ở nơi cuộc đời,nơi cung cấm,không còn mong đợi và tự thân trở nên vô ngôn giữa cuộc đời này.

Vì đâu nên nỗi dở dang
Nghĩ mình,mình lại thêm thương nỗi mình !

Câu thơ thứ nhất là tất cả tuyệt vọng đang được nói ra về tất cả giới hạn liên kết của hiện hữu nầy.Con người sống trong một thế giới cách biệt cho nên không có cách gì mơ về trong cái thương mong,trong cái thủy chung của mình đối với đời;con người sống trong cuộc đời có giới hạn,một cuộc đời toàn cả biên giới “L’homme vis dans un monde de propriétés determines…un monde de limites”(J.Wahl).Tất cả thực trạng ấy làm con người hết hy vọng ở cõi đời này.
Ôn Như Hầu đánh giá cuộc đời qua cung phi là một bản thể cá nhân “đóng kín” và luôn luôn được coi như có giới hạn,đó là cảnh đời cách biệt.Chính mình; Ôn Như Hầu cũng đang cách biệt giữa chủ quan và khách quan thì còn mong chi sự đoái hoài.Ta còn cách ta,còn ngậm hờn với cả chính ta thì làm sao gần gủi với tha nhân! Giữa ta và ta có một ngăn cách vô hình,xa lạ giữa ta và tha nhân thì làm sao có được sự tương thông.Cuộc đời đã hư nát hết thảy;vì con người như Rilke thấy:”cách biệt với tha nhân và cách biệt với chính mình”(trong Élégie) cõi thế là vậy đó; là biệt thị là bôi bát là tha oán!
Câu thứ hai là nghĩ vế thân phận, đã bị trôi giạt đã bị lãng quên giữa cô phòng,một thế giới không còn chủ đích thì tìm đâu cho ra chủ đích của tình yêu ? Liên kết bằng tình yêu thương trong cái nhìn hiện hữu của Ôn Như Hầu nhưng không thể hiện hữu với cuộc đời;do đấy nỗi buồn biến thành nỗi buồn ai oán,thiếu sự yêu thương sủng ái, đó cũng là lý do đưa cung nữ trở về với hoài niệm”thuở ấy” mà đứng trước với thực tại,thương khóc vay mướn chi bằng nghĩ đến mình mà thương mình.”Tình” là những bản thể trong ấy, ngay cả cuộc đời là sự biến đổi kinh hoàng mà tất cả đã mất hết để trở thành con số không mà chỉ còn ngậm ngùi ”Ai bày trò bãi bể,nương dâu”(câu 58).
Đổi thay của cuộc đời là đổi thay luôn ý nghĩa hiện hữu, đấy là sự thật của cuộc đời không ai còn chối cải được nữa.Vì thế,vũ trụ dự ước của Nguyễn Gia Thiều là những cảnh đời có thực trong Cung Oán Ngâm Khúc,những gì mà Ôn Như Hầu gói ghém vào đó chính là những dự phóng của cuộc sống trên đối tượng của những cảnh đời.Khi con người đã có những dự phóng để biến thành thơ là khi con người đã ý thức về quan niệm nhân sinh của chính mình.Những vần thơ của Ôn Nhu Hầu là sự đứng dậy của mình trong nỗi oán của cung nữ và đó chính là sự thức tĩnh nội tại của tiên sinh; ý thức thức tĩnh ấy là cái nhìn của thi nhân.Cho nên thức tĩnh là một cái gì mơ về “dreamy-by”.Mơ ỏ đây không có nghĩa là buông xuôi mà mơ về đây là động lực của ý thức , đánh động lời ta thán trong “Cung Oán”là nỗi lòng.
Đó là khám phá của con người đối diện với thực thể giữa vua quan,giữa công hầu khanh tướng,giữa xiêm y lộng lẫy,giữa truy hoan với tình thương;mà chúng ta đón nhận như chính bản thân mình đón nhận cuộc đời vậy.Nhờ cái đón nhận ấy,Nguyễn tiên sinh khám phá được nội tâm bằng cái nhìn ngoại giới(cung nữ) khám phá ngoại giới bằng cái nhìn nội tâm(nhà thơ).Hai cái nhìn bổ sung cho nhau đều thoát ra từ hoài niệm của Cung Oán Ngâm Khúc.

Thật ra, đi vào đời, đi vào vũ trụ nhân sinh không dể dàng như thế mà chính là sự khám phá không ngừng,như chúng ta vừa nói;con người bắt gặp vừa mình,vừa vũ trụ, một khám phá tìm được hai hiện tượng.Nhưng trong hai hiện tượng ấy,con người có thể phân biệt:bản ngã của mình và vô ngã của vũ trụ.Cái vô ngã của vũ trụ được hữu ngã hóa nhờ chính bản thân của Nguyễn Gia Thiều cho nên cái vô ngã,vô ngôn đưa tiên sinh vào cõi chân như “Bọt trong bể khổ bèo đầu bến mê” đó là tiếng nói của nhà Phật đó là “bào ảnh” là bèo bọt là mộng,huyễn,bào, ảnh như lộ riệc,như điện,như thị quan. Ôn tiên sinh biết điều đó vì sự hiện hữu trên đời đều là KHÔNG nhưng nỗi niềm vẫn là hiện hữu với tha nhân.
Mọi hiện tượng và tâm trạng hạ xuống trong tiếng nói cuối cùng,trong tiếng thở uất nghẹn như tạo nên một cái nhìn sắc bén của con người và qui về ý nghĩa nội tâm, điều mình muốn đôi khi vẫn không hòa mình được với vũ trụ nhân sinh.Do đấy giữa tiếng nói thông thường và ngôn ngữ thi tứ vẫn có những dị biệt;giống nhau trong hình thức nhưng khác nhau trong ý nghĩa nội dung,sự khác biệt về giá trị hình ảnh của cuộc đời cung nữ đó là cái nhìn tâm thức biến động chuyển hoá từ vô ngã sang bản ngã trong những khung cảnh và hiện tượng của đời tạo nên,một cái nhìn cảm thông giữa con người qui lòng mình vào vũ trụ. Đó là cuộc đời”dâng hiến” bị lãng quên và tâm thức con người trước vũ trụ.

Muốn đem ca tiếu giải phiền
Cười nên tiếng khóc hát nên giọng sầu

Đối tượng cũng như bản thể được qui về trong một cái nhìn tương quan sự vật,một cái nhìn so sánh sự vật và từ cái nhìn đó làm sáng tỏ một tâm trạng của vũ trụ tâm hồn và đối tượng được hòa với sự vật biến cải thành ngôn từ và qui về thành tâm trạng :

Hoàng hôn thôi lại hôn hoàng
Nguyệt hoa thôi lại thêm buồn nguyệt hoa
Buồn vì nỗi nguyệt tà ai trọng ?
Buồn vì điều hoa rụng ai nhìn ?
Tình buồn cảnh lại vô duyên
Tình trong cảnh ấy,cảnh bên tình nầy

Con người vượt thoát ra khỏi băn khoăn bi đát,không còn chua xót với nỗi đau đoạn trường,ai oán mà trở về với thiên nhiên,lấy thiên nhiên làm nguồn an ủi cho chính mình,lấy sự nhàn hạ,phong lưu tiêu sái làm chí thú,ngâm phong vịnh nguyệt làm thích. Đấy là con người mơ về vũ trụ để khám phá một vũ trụ phong phú đầy tâm thức cho chính mình; đó là thế giới nội tâm mà mình hằng sống và tha thiết nhận sống để thấy được nỗi lòng mình qua cung nữ. Đó là điều thương mong của Ôn Như Hầu.
Và đó cũng là chủ thể đối tượng mà chủ thể tìm thấy mình trong lòng đối tượng;một gắn bó giữa chủ thể và khách quan một gắn bó tế nhị và sâu xa có thể nói là tha thiết hơn bao giờ.Nhờ đó mà con người thấy được tâm trạng và hình ảnh qua Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều Ôn Như Hầu.

Lạnh lùng nào thấy ủ ê
Khi bi thương sực nức hè lạc hoa

“Nức hè lạc hoa” chính là hoa vũ trũ. Đó là vũ trụ giới mơ về,hướng về cái của mình,trong cái nhìn tương giao hội ngộ giữa cung nữ với công hầu;giữa hai thể ấy gặp nhau cùng một tâm trạng được khám phá để được gần nhau,hòa trong nhau trên một bình diện hiện hữu và con người trong cuộc đời của Ôn Như Hầu tiên sinh như Descartes nói: ”Je pense,donc je suis” con người là tâm trạng tưởng nhớ mơ về,dù rằng Nguyễn tiên sinh không nói “mơ về” nhưng trong tâm thức của tiên sinh đã mơ về đã hoài vọng, đó là vũ trụ hiện hữu của mình trong cuộc đời.Tuy mượn nhân vật để thay thế mình nói lên nỗi oan mà thể hiện được cả hai (un être-a-deux) chung sống với nhau trong cùng một thế giới. Đúng như Marleau Ponty nói: “Trong tư tưởng của tôi và tư tưởng của người chỉ là một tế bào,tư tưởng và tình cảm vướng vít vào nhau trong một biến trình” cho nên trong đau thương hay trong nỗi oan cũng có cái sung sướng của đau thương và cái hạnh phúc trong nỗi oán,trong hạt lệ vẫn có vinh quang của hạt lệ.
Cuộc đời là như thế đó! Ôn Như Hầu thấy được nỗi niềm ấy chính là lời ta thán trong “ngâm khúc” trong cái ta thán đó vẫn tiềm ẩn một cõi đi về trong tuyệt đối mà tuyệt đối ở trong những chiếm cứ tương đối của ta.Những chiếm cứ ấy không thể có được trong chính cuộc đời;thì chỉ còn lại sự thương yêu cho chính mình. Đó là bản thể và hiện tượng dung thông trong cõi trần nầy vậy.
Như đã nói Cung Oán Ngâm Khúc là lời thán oán ,nhưng ở đây Ôn Như Hầu xử dụng chữ oán một cách tài tình và sâu sắc bao hàm cả một ý nghĩa cao siêu thoát tục;oán nhưng không hận “Lấy ân báo oán,oán ấy tiêu tan.Lấy oán báo oán,oán ấy chập chùng” (kinh nhà Phật) mà vẫn giữ được vẹn toàn phận cung phi,phận trung thần,có chăng là lời oán trách cho chính mình(?).Có than thở,có oán hận Nguyễn Gia Thiều vẫn giữ lại một điều gì đó cho mai sau :
Phòng khi động đến cửu trùng
Giữ sao cho được má hồng mai sau

Đó là chân tướng thực hữu của Nguyễn Gia Thiều một con người suốt đời phục vụ quân vương với hai chữ trung thần dẫu có than thân trách phận thì đó là cái phận làm người giữa cõi đời này…tiên sinh đem cái thi chỉ ở trong ba trăm thiên của Kinh thi nói về chữ oán “khả dỉ oán” và “oán nhi bất nộ” thì thiết tưởng chữ oán ở đây chỉ là tiếng ca ngâm của nỗi lòng mà thôi. Đ ấy là quan niệm nhân sinh trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu.

Tóm lại,thời gian là động lực chính của cuộc đời, động lực làm cho đời sống trở nên sâu sắc và động lực làm cho đời hủy diệt,vùi dập,miệt thị,lãng quên đó là sự biến dịch của thời gian,của đổi thay không phương thế nào phân cách thời gian ra được,không một điều kiện nào đổi thay lòng người.Tất cả đã đến như an bài và tất cả đã qua như thời gian;thế nhưng con người vẫn luôn luôn hoài nghi thân phận :

Cái đêm hôm đó đêm gì?
Bóng dương lồng bóng đồ mi trập trùng.

Cung Oán Ngâm Khúc trở nên lời tự thán của Nguyễn Gia Thiều,không oán hận mà chỉ là lời tỏ bày hay đúng hơn là lời tâm sự cho chính mình;bởi “ngâm khúc” vốn đã chứa đựng một lời mật thể trong đó;oán không trách, đúng với đạo lý, đúng với lẽ trời,dâng hiến vừa là nghĩa vụ”obligation”,vừa là hy sinh“sacrifice” với đời đó là thế thái nhân tình mà tiên sinh chấp nhận như qui định của xã hội.
Cung Oán Ngâm Khúc không còn là cái oán của cung nữ hay cái oán của Ôn Như Hầu mà cái oán của nhân thế.Oán trở nên có giới hạn,oán nằm trong tiềm thức của con người,nó sẽ oán những khi không thỏa mãn nhu cầu. Đương nhiên là thế! Ôn tiên sinh vị uyên thâm đạo lý về kinh điển ắt phải thấu triệt được chữ oán là gì mới sáng tác lên những giòng thơ tâm huyết như thế; với tác giả Cung Oán Ngâm Khúc ,oán như để thấy mình còn cung nữ oán là cảm nhận được sự cô liêu,trống vắng xuất phát tự tiền thân; tất sẽ không còn oán,có chăng chỉ là ca ngâm vang vọng với nội tâm mà thôi!

Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều hiểu điều đó hơn ai hết.Vì người thấm nhuần đạo lý làm người một cách thấu đáo mới gắn mình vào cung oán ngâm khúc như nỗi lòng.”Người làm quan là để thi hành điều nghĩa chứ đạo thì chẳng thi hành được “(Khổng Tử) thiết nghĩ đó là nhân sinh quan của Ôn tiên sinh ./.
(Nguồn : Hoa Đông Phương)

Bình giảng đoạn trích cảnh chia ly

CHINH PHỤ NGÂM KHÚC


Đề bài : Bình giảng đoạn trích “ cảnh chia ly “
                                                           Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng
                                                           Hàng cờ bay trông bóng phất phơ
                                                           Dấu chàng theo lớp mây đưa ,
                                                           Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà .
                                                           Chàng thì đi cõi xa mưa gió ,
                                                           Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
                                                           Đoái trông theo đã mấy cách ngăn
                                                           Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh
                                                           Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
                                                           Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
                                                           Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
                                                           Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng
                                                           Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
                                                           Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
                                                           Ngàn dâu xanh ngắt một màu
                                                           Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai ?





BÀI LÀM :


     Đến với “Chinh phụ ngâm khúc “ ta nhận ra được nỗi khổ của con người trong chiến tranh , thấm thía cái khát vọng mong manh về hạnh phúc lứa đôi . Mỗi câu thơ hiện hữu hay cũng là nỗi niềm người chinh phụ ngân lên trong từng cung điệu sâu thẳm , trầm lắng . Ngay từ khoảnh khắc chia ly _ thời khắc bắt đầu cho những tâm trạng u sầu , mòn mỏi về sau _ta đã cảm nhận được điều đó nhờ sự diễn tả một cách vô cùng tinh vi , sâu sắc nỗi lòng con người của nhà thơ .
     Những cuộc chia ly bao giờ cũng buồn , cũng nặng trĩu tâm tình kẻ ở , người đi . Nhà thơ đã khéo léo đưa vào tiếng sáo như một âm thanh đồng vọng , xốn xang :
Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng
Hàng cờ bay trông bóng phất phơ .
Tiếng sáo như mang theo nỗi lòng của con người hòa vào không gian . Cả một khoảng trời chỉ có tiếng sáo vi vu còn con người thì lặng đi trong nỗi buồn . Tiếng sáo ấy nói hộ lòng người trong phút chia ly _ cái giờ phút vốn không dễ nói nên lời ! Người ta xa nhau , bất chợt nghe tiếng sáo mà như cảm được lòng nhau vậy . Không gian hiện lên với âm thanh của sáo , với bóng của cờ ,…, là ngọn cờ ra trận ! Đằng sau bóng cờ phất phơ kia thấp thoáng đôi mắt , ánh nhìn của người chinh phụ . Dường như nàng muốn tìm , muốn mãi dõi theo dấu chân của người chinh phu . Còn nhìn thấy nhau là họ vẫn còn ở gần nhau , đủ để lòng nàng vợi bớt cô đơn . Cái cảm giác chơi vơi , trống vắng tràn ngập khắp không gian . Xa nhau rồi mà lòng vẫn hướng về nhau , mà sao đôi mắt vẫn không thể quay đi , vẫn cứ đăm đắm tìm một bóng hình :    
                     Dấu chàng theo lớp mây đưa                           
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà .
     Còn lại là gì sau đôi mắt đang mãi nhìn theo kia ? Khoảng cách ngày càng xa , bóng hình người chinh phu cũng trở nên mơ hồ , chìm hẳn vào không gian , biến mất nơi chân trời . Thu vào tầm mắt chỉ có núi , có cỏ cây . Để rồi cũng từ ấy người chinh phụ cảm thấy “ngẩn ngơ”. Một đôi mắt phải nhìn rất lâu , rất chăm chú mới trở nên ngẩn ngơ đến vô hồn như vậy . Mặc khác cũng có thể người chinh phụ có tâm trạng đó vì nghĩ về cảnh gia đình xa cách . “Nỗi nhà” sẽ càng trở nên vắng lặng hơn khi thiếu vắng người mình yêu thương . Người chinh phu rời nhà ra đi mà phía sau lưng là bao nỗi đợi chờ , bất an :
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái trông theo đã mấy cách ngăn
Tuôn màu mây biếc , trải ngàn núi xanh
     Chiến tranh khiến con người ta đang hạnh phúc phải xa nhau . Một người ra đi đến chiến trường xa xôi với bao nguy hiểm rình rập , bao vất vả gian nan . Còn một người phải ở lại , quay về chốn buồng cũ chiếu chăn _ nơi ghi dấu hạnh phúc lứa đôi mà giờ đây sao cô đơn vắng lặng , một người một bóng vò võ ngóng trông . Trong sự mường tượng về cảnh cô đơn mỏi mòn ấy ta nhận ra tấm lòng của một người vợ lo lắng cho chồng trước con đường đầy khó nhọc , hiểm nguy mà chàng sắp đi qua .
     Và dường như thiên nhiên bao la đã được đưa vào để lấp đầy khoảng trống xa cách giữa hai người . Lấp đầy hay cũng là tạo thành một vách ngăn cản trở những đôi mắt chan chứa yêu thương muốn níu giữ bóng hình người kia . Nỗi lòng của người chinh phu và chinh phụ trong giờ phút ly biệt được tác giả diễn tả song song . Mỗi một lần tâm hồn người chinh phụ dâng trào cảm xúc cũng là lúc người chinh phu ngổn ngang bao nỗi đa đoan . Cùng với màu mây biếc , màu núi xanh là sự hiện hữu của cả không gian bao la . Ở đó con người càng lúc càng đơn độc , nhỏ bé . Trời cao , đất rộng mà không còn người để sẻ chia , phải lạc lõng , bơ vơ.Lúc này có lẽ người chinh phụ còn đang đứng lặng ngẩn ngơ …!!!
     Giữa người chinh phu và chinh phụ như có một sợi dây ràng buộc , níu kéo họ lại với nhau . Chân bước đi mà đầu còn ngoảnh lại . Ngoảnh lại để thấy con đường mình đã đi qua , để nhìn thấy đâu là nơi mình đã ra đi hay để tìm hình bóng người vợ yêu dẫu biết là không thể . Cả hai , một người ngoảng lại , một người trông sang , đối lập nhau trong cấu trúc hai câu thơ nhưng chung quy lại cũng đều mong được nhìn thấy nhau . Tiêu Tương , Hàm Dương là khoảng cách ước lệ xa xôi mà chính bản thân Tiêu Tương đã hàm chứa sự ly biệt , buồn thương . ( Tiêu Tương là nơi rẻ nhánh thành hai con sông nên được xem như biểu trưng cho sự chia ly) :
                                                        Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
                                                        Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
                                                        Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
                                                        Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng
     Bằng những hình ảnh tương phản phối hợp với các điệp từ và đảo vị trí của 2 địa danh tác giả muốn chia đều cảm xúc của hai người nhấn mạnh nỗi sầu xa cách. Đọc 4 câu thơ này, ta thấy tình cảm nhớ nhung cứ tăng dần, tăng dần. Điều đó cho thấy sự chia ly ở đây là sự chia ly về cuộc sống và thể xác, còn trong tình cảm tâm hồn hai vợ chồng ấy vẫn gắn bó thiết tha. Họ vẫn hướng về nhau, dõi theo để tìm nhau, nhìn thấy nhau. Nhưng càng hướng về nhau thì không gian và thời gian càng đẩy họ xa nhau. Do đó lời thơ không chỉ biểu hiện nỗi sầu chia ly mà còn nhấn mạnh sự oái oăm, nghịch chướng: gắn bó mà phải chia xa, càng dõi nhìn nhau càng không thấy nhau.“Cùng trông” mà “cùng chẳng thấy “ . Không thấy được nhau nhưng tâm hồn họ đã tìm gặp được nhau , thấu hiểu cho tâm trạng của nhau. Có cái gì đó luyến tiếc mơ hồ trong khoảng cách . Tính từ “xanh xanh” được đảo ngữ đặt lên phía trước làm rõ hơn cho cái không gian chỉ có một màu xanh tâm trạng :
                                                        Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
                                                        Ngàn dâu xanh ngát một màu
                                                        Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai ?
     Hai câu thơ diễn tả màu xanh được lặp lại là cách mà nhà thơ đưa nỗi buồn tăng tiến lên đến tầng tầng lớp lớp trong lòng người chia tay . Thật sự con người đang trong một hoàn cảnh buồn đau đến vô cùng . Để rồi đến cuối đoạn trích người chinh phụ thốt lên một câu hỏi mơ hồ :” Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”
    Câu hỏi ấy tạo cho ta cảm giác lơ lửng, chơi vơi . Nó vừa như bỏ dỡ mà thật sự đã khép lại, thâu tóm toàn bộ nỗi lòng con người . Một chữ “sầu” thôi nhưng sức ảnh hưởng của nó thì rất lớn. Chia ly, ai chẳng buồn chẳng sầu? Nhưng sao vẫn thấy cái nỗi sầu của người chinh phụ khác quá đỗi, nó nặng trĩu tâm tư . Phải chăng ly biệt cũng là vĩnh biệt . Biết đâu đây lại là lần cuối cùng họ được nhìn thấy nhau . Bỡi lẽ chiến tranh có mấy ai sống sót quay về ? Hỏi đấy nhưng cũng là khẳng định đấy thôi !  




   Trần Thái Diễm Chi _ 10 Văn K11

CẢNH CHIA LY

CẢNH CHIA LY
  • Hồ Ngọc Quý - Văn khoá 11

    
        Trong cuộc sống, ai mà chẳng ước mong có được niềm vui hạnh phúc, có được một cuộc sống gia đình đầy ắp những niềm vui. Còn gì sung sướng hơn khi lứa đôi xum vầy? còn gì mãn nguyện hơn khi uyên ương liền cánh? Thế nhưng không có hạnh phúc nào trọn vẹn. Có những gia đình đã tan vỡ mang lại sự đau khổ, ngậm ngùi. Những nỗi đau, những sự mất mát ấy đã bước vào thi ca dân tộc để lại trong lòng người những nổi niềm xúc động, bi thương.
              Hạnh phúc mới hôm qua đó mà sao đã vỡ tan tành, người vẫn còn đây mà sao đôi đường đôi ngã. Chinh phụ và chinh phu trong bài thơ này cũng thế. Họ phải đau lòng, đứt ruột khi rời xa nhau. Trong tâm trạng cùng cực ấy, một tiếng sáo từ xa vọng lại mang theo âm điệu man mác thiết tha như đồng cảm với tấm lòng của người đi kẻ ở. Tiếng sáo ấy làm khung cảnh nhuốm màu thế lương, làm tâm hồn con người trở nên héo úa và nó như gặm nhắm tâm tư người trong cuộc. Để rồi người chinh phụ, chinh phu phải bàng hoàng, chua xót, ngỡ ngàng nghe chừng. Khung cảnh đoàn quân trong giờ ra trận thông thường đều mang khí thế sục sôi, hăm hở chiến đấu, sẵn sàng xả thân vì nghĩa thế nhưng trong giờ phúc chia tay này hình ảnh ấy như mờ nhạt, tàn tạ phất phơ, lùi đằng sau nhường chỗ cho tâm trạng con người. Người chinh phu ra đi để lại trong lòng người chinh phụ bao nỗi nhớ nhung, sầu muộn. Nàng vẫn dõi mắt trông theo với tất cả tấm lòng son sắt, thủy chung của mình thế nhưng càng đăm đắm bao nhiêu thì lại càng chuốc thêm phiền lụy bấy nhiêu. Hình ảnh người chinh phu cứ khuất dần, mờ dần theo lớp mây đưa, theo từng rặng núi. Để rồi người chinh phụ xót xa ngẩn ngơ nỗi nhà. Một từ ngẩn ngơ như chất chứa bao tâm trạng buồn thương, sầu nhớ. Phải chăng đó là khoảng khắc người chinh phụ thấp thỏm không yên lo cho tính mệnh chồng mình? Phải chăng đó cũng là lúc nỗi đau dâng đầy trong tâm tư người chinh phụ? Một nỗi hoang mang, bất an như bủa vây lấy nàng, đẩy nàng vào tình thế không lối thoát, để rồi càng nhìn theo thì nỗi niềm sầu thương càng chi phối tâm trạng của nàng. Phòng khuê vẫn còn đó, người chinh phụ vẫn còn đó nhưng chồng nàng đang ở nơi nao? Cảnh cũ còn đây nhưng người đã khuất. buồn cũ chiếu chăn, hình ảnh quen thuộc cứ lần lượt xuất hiện, bóng hình chinh phu cứ thế hiện diện trong tâm trí nàng, và những kỉ niệm xưa cứ ùa về theo nỗi nhớ, khiến tâm tư nàng thêm trĩu nặng, bi ai. Để rồi lùi sau nỗi buồn là sự khổ đau dằn xé tâm tư nàng: chàng thì đi cõi xa mưa gió. Mưa gió gợi lên bao nỗi nhọc nhằn, những hiểm nguy vất vả mà người chinh phu phải chịu đựng. Chàng có được bình an chăng? Có đói rét gì không? Tất cả đã trở thành gánh nặng và rồi theo thời gian nó cứ nặng dần, nặng dần. Trong giờ phút tiễn biệt ấy, chinh phu, chinh phụ muốn tìm kiếm hình ảnh của nhau đoái trông nhưng đáp lại nỗi niềm đó lại là tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh. Đoái trông là khoảnh khắc người ta thiết tha, mong đợi, khắc khoải. Đoái trông cũng mang theo tất cả nỗi niềm hi vọng, đợi chờ. Đó là lúc mà tâm hồn khao khát được tìm về nơi bến đổ, tìm kiếm bóng hình quen thuộc để trở về với những khoảnh khắc bình yên trong tâm hồn. Nhưng đáp lại chỉ là ngàn núi xanh, sắc xanh lạnh lùng, sắc xanh tê tái. Nó như đẩy con người vào một cõi triền miên đau khổ. Và theo đó chinh phu, chinh phụ rơi vào một tình cảnh bi kịch khi lại càng hi vọng bao nhiêu thì lại càng tuyệt vọng, bẽ bàng bấy nhiêu. Nỗi nhớ thương cứ thế trải dài ra vô tận. Những địa danh trong đoạn trích Hàm Dương, Tiêu Tương được khắc họa bằng bút pháp ước lệ tượng trưng đã kéo dãn khoảng cách giữa người đi kẻ ở:
Chốn Hàm dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng
              Hàm Dương – Tiêu Tương, Tiêu Tương – Hàm Dương, những địa danh ấy cứ lặp đi lặp lại cùng các hành động ngoảnh lại – không nỡ rời xa, trông sang – luyến tiếc, níu giữ, đã làm cho mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang và mối sầu ấy dằng dặc tựa miền biển xa. Tâm tư luôn hướng về nhau nhưng khoảng cách đã chia đôi con đường. Dường như đó là lúc chinh phu, chinh phụ ngậm ngùi, xót xa cho duyên kiếp bẽ bàng. Để rồi cả hai cùng hướng về hành động cùng trông. Đó là khoảnh khắc hai linh hồn đồng cảm luôn hướng về nhau, thấu hiều và cảm thông cho nhau đến tuyệt đối. Phải chăng cả hai đều hi vọng khi ngoảnh đầu lại sẽ nhìn thấy dáng hình quen thuộc, thân thương ấy? Thế nhưng một lần nữa con người lại rơi vào nỗi bàng hoàng , ngao ngán khi chẳng nhìn thấy đối phương mà lại thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu, ngàn dâu xanh ngắt một màu. Tâm trạng dường như đã hòa vào thiên nhiên một cách tuyệt đối. Thiên nhiên đã truyền tải bao cảm xúc của con người. Toàn bộ khung cảnh tiễn đưa chỉ toàn một màu xanh núi xanh, xanh xanh những mấy ngàn dâu, ngàn dâu xanh ngắt nhưng màu xanh ấy đã có mức độ tăng tiến từ ít đến nhiều, từ nhạt đến đậm. Dường như tâm trạng của người chinh phụ lúc này cũng thế. Theo thời gian khoảng cách càng xa, tâm tư nàng càng thêm ngồn ngang, trăm mối tơ vò. Nàng càng lúc càng đau khổ, xót thương, nhức nhối, càng lúc càng lo lắng, bồn chồn. Xanh ngắt như một mũi dao cứa vào, làm tim nàng rỉ máu. Từ ngắt đã đưa tâm tư nàng lên đến tột cùng của mọi sự khổ đau, tê tái. Màu xanh ảm đạm ấy bao phủ khắp không gian buổi chia li. Một màu như mang theo tâm trạng người chinh phụ trải dài ra vô tận. Để rồi vọng lên trời cao là một câu hỏi tu từ không lời giải đáp:
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
              Giữa hình ảnh người chinh phu xông pha nơi chiến trường, cái chết cận kề bên cạnh; người chinh phụ ngậm ngùi khắc khoải nhớ thương trong chốn phòng khuê đầy ắp kỉ niệm thì ai sầu hơn ai không còn là sự so sánh bình thường nữa mà nó như là minh chứng cho hai tâm hồn, hai tấm lòng luôn hướng về nhau, tan nát lòng trong giờ phút li biệt. Ai sầu hơn ai điều đó chẳng còn quan trọng nữa mà cốt yếu chính là tấm lòng thủy chung, son sắt giữa hai người.
              Mâu thuẫn gay gắt, nội chiến liên miên đã đẩy con người vào những tình cảnh ngang trái, đau khổ. Những đôi vợ chồng trẻ đã phài xa lìa nhau, gạt nước mắt để trở thành chinh phu, chinh phụ. Trong cảnh khói bụi như thế đâu ai biết trước tương lai mình sẽ ra sao. Bạc đầu vì sương sớm hay bỏ mạng nơi sa trường? Duy chỉ có tấm lòng son sắt, thủy chung là không thể nào lu mờ được. Chính vì vậy hình ảnh kẻ ở người đi đã đi vào những áng thơ hay, làm bùi ngùi, xúc động tâm hồn người đọc. Hình ảnh người chinh phu, chinh phụ mãi luôn chiếm những tình cảm ưu ái trong lòng mỗi chúng ta!
             

PHÚT CHIA LY

        BÌNH KHÚC NGÂM PHÚT CHIA LY
  •         Hồ Mỹ Duyên   


        Cảnh biệt li tiễn chồng ra trận của người chinh phụ sao mà sầu não, bi thương; kẻ ra đi,  người ở lại sao mà da diết một nỗi sầu. Người chinh phụ đứng nhìn đoàn quân đang chìm dần cuối chân trời, còn vọng lại mơ hồ những âm thanh, những mong manh hình ảnh
                                          Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng,
                                          Hàng cờ bay trông bóng phất phơ,
              Chàng đi rồi, chỉ còn lại nàng nơi đây lòng ngẩn ngơ, trống trải dõi theo bóng chàng. Nơi đây chỉ còn nàng lẻ loi, nhỏ bé cùng với không gian mênh mông, xa vắng, tiếng địch chỉ còn đồng vọng và lá cờ chỉ còn là một bóng mơ hồ, phất phơ. Đó là cảnh đoàn quân đã xa hẳn, sự ồn ào náo nhiệt không còn nữa, chỉ còn văng vẳng tiếng địch thổi từ cánh đồng xa nghe sao não nùng, thiết tha…Tiếng địch ấy dường như lắng đọng cùng tâm trạng nàng, đang ngóng trông theo bóng chàng đã khuất theo từng lớp mây đưa. Nàng đứng lại một mình, lúc này tâm hồn thực trống trải, thực bơ vơ. Tìnhđơn, tâm hồn bàng hoàng, ngập ngừng, ngơ ngẩn trước cảnh vật đang khêu gợi nỗi nhớ nhung man mác, nàng thả lòng bâng khuâng theo bóng chàng :
                                          Dấu chàng theo lớp mây đưa,
                                          Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.
              Khung cảnh thiên nhiên bao la đã che lấp một mối tình mờ mờ. Mối tình ấy giờ đã bị không gian vũ trụ chia lìa đôi ngã. Nhưng dù sao đi chăng nữa, tình chàng ý thiếp vẫn luôn vẹn nguyên, sắc son chung thuỷ; dù cho lớp mây kia đưa đẩy, rặng núi kia trở thành vách ngăn thì tình chàng ý thiếp vẫn luôn hướng về nhau, không bao giờ chia cách. Chàng - thiếp luôn sóng đôi, luôn kề cập bên nhau ấy vậy mà giờ chàng đã ra đi, chinh chiến nơi cõi xa mưa gió, để lại thiếp ngẩn ngơ một mình bên buồng cũ chiếu chăn. Nỗi sầu, nỗi nhớ xa cách như dâng tràn cùng năm tháng, nỗi mòn mỏi mong chờ giờ đã trải ngàn núi xanh. Hai người tuy xa cách, mỗi người mỗi cảnh nhưng vẫn còn lưu luyến quay lại nhìn nhau để rồi nhận thấy sự chia lìa đau đớn :
                                          Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,
                                          Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.
                                          Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,
                                          Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
              Tiêu TươngHàm Dương, hai địa danh cách xa trùng trùng nhằm để diễn tả cho sự xa cách của đôi chinh phu, chinh phụ. Tuy xa cách nghìn trùng như vậy nhưng lòng chàng ý thiếp vẫn hoà làm một, vẫn sóng đôi bên nhau, cùng mong mỏi về một ngày đoàn tụ, vợ chồng sum họp. Dù là vậy, nhưng hiện thực bi thương vẫn cứ tồn tại, nỗi xa cách, mối sầu liên miên vẫn cứ dây dưa cùng người chinh phụ. Nỗi buồn mênh mông giờ đã chiếm lĩnh lòng nàng khi nàng đứng trước cảnh ngàn dâu bao la và xanh ngắt :
                                          Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
                                          Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu,
                                          Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
                                          Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
              Chàngthiếp gặp nhau, đồng điệu cùng nhau trong tâm tư, tình cảm nhưng thật sự thì cả hai đang cách xa muôn trùng. Cùng một lúc, từ hai phương trời xa cách, hai con người cùng ngoảnh lại nhưng sầu thay, trước mắt họ chỉ là một màu xanh ngắt của ngàn dâu. Màu xanh – màu của sự cô đơn, tương tư, trống trải bao phủ, đè nén tâm trạng càng khiến cho người chinh phụ sầu hơn. Nỗi sầu ấy như dâng tràn, bật thành lời Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? Một câu hỏi tu từ khép lại khúc ngâm nhưđậm, khẳng định tâm tư người chinh phụ: Buồn thương, tiếc nuối, sầu hận…./.