CHÀO MỪNG

Chào mừng bạn đến với blog Học Văn của học sinh trường THPT Chuyên Lê Quý Đôn Bình Định - Mọi thông tin liên hệ, đóng góp bài vở, xin gửi về vankhoa11@gmail.com hoặc liên hệ trực tiếp với lớp trưởng Chuyên Văn khoá 11 Đỗ Lê Bảo Duyên - LPHT Trần Thái Diễm Chi

Thứ Bảy, 4 tháng 12, 2010

Đề cương ôn tập học kì 1 - lớp 11 nâng cao


Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP  MÔN NGỮ VĂN LỚP 11 – Nâng cao
HỌC KÌ I - Năm học 2010-2011
--------------------            

            I. Nội dung ôn tập :

            A. Phần Văn học :
1. Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám 1945
2. Tác gia văn học :
- Tác gia Nguyễn Đình Chiểu
- Tác gia Nguyễn Khuyến
3. Văn bản văn học :
- Vào phủ chúa Trịnh (Trích Thượng kinh kí sự - Lê Hữu Trác)
- Lẽ ghét thương (Trích truyện Lục Vân Tiên – Nguyễn Đình Chiểu)
- Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu)
- Tự tình II (Hồ Xuân Hương)
- Bài ca ngắn đi trên bãi cát (Cao Bá Quát)
- Câu cá mùa thu ; Tiến sĩ giấy (Nguyễn Khuyến)
- Thương vợ (Trần Tế Xương)
-  Bài ca ngất ngưởng (Nguyễn Công Trứ)
- Chiếu cầu hiền (Ngô Thì Nhậm)
-  Hai đứa trẻ (Thạch Lam)
- Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)
- Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ - Vũ Trọng Phụng)
- Chí Phèo ; Đời thừa (Nam Cao)
- Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (trích Vũ Như Tô – Nguyễn Huy Tưởng)

            B. Phần Tiếng Việt :
1. Ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân
2. Luyện tập về hiện tượng tách từ
3. Luyện tập về trường từ vựng và từ trái nghĩa
4. Ngữ cảnh
5. Luyện tập về tách câu
6. Phong cách ngôn ngữ báo chí
            C. Phần Làm văn :
1. Thao tác lập luận phân tích - Luyện tập.
2. Thao tác lập luận so sánh.

II.  Cấu trúc đề thi : 

1.  Đề thi gồm 2 phần :
Phần 1 (3 điểm) : Trắc nghiệm kiến thức Văn học và Tiếng Việt (15 câu)
Phần 2  (7 điểm) Tự luận
Vận dụng khả năng đọc - hiểu và kiến thức văn học để viết bài nghị luận văn học
2. Thời gian làm bài : 90 phút (không kể phát đề)

III. Dạng thức đề : (Phần tự luận - Những câu hỏi sau đây chỉ mang tính chất minh hoạ)
1. “Hỏi  thời ta phải nói ra – Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” (Truyện Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu).
            Viết bài văn bàn về “lẽ ghét thương” trong quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu.
2. Con người Nguyễn Khuyến qua bài thơ Câu cá mùa thu
3. Phân tích cảnh cho chữ cảm động  trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.
4. Nghệ thuật xây dựng nội tâm nhân vật  Liên trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
4. Phân tích ý nghĩa tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao trong Đời thừa
5. Phân tích và bình luận tính cách của Vũ Như Tô trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu trùng đài (Nguyễn Huy Tưởng).
             
---------------- Hết ----------------

Thứ Ba, 16 tháng 11, 2010

Giọng điệu trong văn chương

  • Hoàng Ngọc Hiến

http://www.newwestend.org.uk/images/whats_book.jpgVăn học là “ nghệ thuật ngôn từ”. Quan niệm này nhấn mạnh một đặc trưng của văn học (phân biệt văn và những loại hình nghệ thuật khác). Ở ta, có một thời giảng văn là giảng chính trị. Sau khi nắm được đặc trưng nói trên, việc truyền đạt các nội dung của tác phẩm văn học được thực hiện trên cơ sở bám lấy từ. Nhưng phương pháp dạy văn bám lấy từ (cho đúng với đặc trưng các bộ môn) thường được thực hiện hết sức thô thiển, máy móc, trong thực tiễn dạy văn của nhiều giáo viên văn, “bám lấy từ” có nghĩa là:
- Chỉ ra trong câu, trong đoạn của bài văn một số từ và nói rằng nội dung như thế này, như thế kia là ở những từ này, từ nọ (học sinh cũng làm như vậy).

- Tinh tế hơn, thì chỉ ra trong câu hoặc đoạn văn những mỹ từ pháp: điệp ngữ, ẩn dụ, đảo ngữ, so sánh, điệp âm, hoán dụ…
Đây là bám lấy từ một cách hình thức, là chủ nghĩa hình thức trong dạy văn, hiệu quả có khi còn tồi tệ hơn cách dạy nói chính trị hoặc xã hội học thoát ly văn bản. Đặc biệt học sinh thường bám lấy từ một cách hết sức vụng dại, ngô nghê.

Cái hay của bài văn không phải ở bản thân những từ và mỹ từ pháp ấy, mà chính là ở nội dung được truyền đạt một phần và chỉ một phần thôi nhờ vào những từ và mỹ từ pháp ấy.

Chỉ những câu thơ có “nhãn tự” thì chỉ ra được những “ nhãn tự” là đầy đủ ý nghĩa, những câu thơ như vậy là rất hiếm. Giáo viên nhiều khi chỉ làm công việc gọi tên những mỹ từ pháp trong bài văn. Điều quan trọng trong giảng văn là nói cho được nội dung đã khởi sắc hơn, lấp lánh hơn nhờ vào mỹ từ pháp như thế nào. Không nói được những điều này thì việc gọi ra tên những từ và mỹ từ pháp trở thành một việc làm vô nghĩa. Bám lấy từ chỉ là một việc làm vô nghĩa. Bám lấy từ chỉ là một cách để làm sáng tỏ nội dung. Còn nhiều cách khác. Giáo viên có thể tạo  ra nhiều liên tưởng bên ngoài văn bản, bên ngoài tác phẩm. Bám lấy từ chỉ là bước đầu để tiếp cận nội dung của bài văn có khi là ở “ sự im lặng giữa những từ”.

Cách dạy văn bám lấy từ như đã nói ở trên đương trở thành một tai họa phổ biến ở trường phổ thông, thực chất là một cách làm việc vu vơ, lười nghĩ.

“ Văn học là nghệ thuật ngôn từ”. Ngôn từ không chỉ bao gồm từ, mỹ từ. Trong tác phẩm văn học, câu văn phải có hồn. Ngay trong một bài viết lý luận mà câu văn có hồn thì còn “văn học” hơn một bài thơ giàu hình ảnh nhưng câu thơ không có hồn (điều này có thể cảm nhận được rất rõ mặc dù nói cho ra được điều này không dễ). Câu văn có hồn là câu văn có giọng, ngữ điệu, bởi vì từ ngữ của bài văn được chọn có thông báo nhiều điều quan trọng nhưng bài văn không có giọng đọc lên vẫn nhạt nhẽo vô vị. Sự phong phú, tính đa nghĩa, ý vị đậm đà của bài văn trước hết là ở giọng. Năng khiếu văn ở phần tinh tế nhất là năng lực bắt được trúng cái giọng của văn bản mình đọc và tạo ra được giọng đích đáng cho tác phẩm mình viết. Bắt được giọng đã khó, làm cho học sinh cảm nhận được cái giọng càng khó, công việc này đòi hỏi sáng kiến và tài tình của giáo viên. Về phương diện này quan điểm của nhà nghiên cứu văn học M.B. Khravchenko tiếp cận tác phẩm văn học như một “ kết cấu các giọng điệu”, như một “ hệ thống các ngữ điệu”, như một “gam ngữ điệu” là một luận điểm có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng đối với công việc giảng văn. “Hơi văn”, “văn khí”, “giọng văn”…đó là những khái niệm rất cơ bản của các tác phẩm văn học. Người Pháp có câu “ Cest le ton qui commande la musique” ( Chính cái giọng chi phối bài nhạc). Ở những áng văn hay, cái giọng của câu văn mở đầu có ý nghĩa quyết định cho sự cảm nhận cảm hứng chủ đạo và nội dung của toàn bộ tác phẩm. Nhà văn Marquer có thuật lại sau khi viết xong truyện Giờ rủi ro, ông đã đầy đủ tư liệu để viết Trăm năm cô đơn nhưng ông không thể nào cầm bút viết vì chưa tìm được giọng. Mãi năm năm sau ông mới tìm được giọng thích đáng: đó là cách kể của một bà già nói về những chuyện hoang đường, siêu nhiên bằng một giọng hết sức tự nhiên. Chỉ khi ấy, tác giả mới viết được. Phải mấy năm mới tìm ra giọng. Hóa ra giọng kể có khi còn quan trọng hơn câu chuyện được kể rất nhiều! Muốn hiểu Truyện Kiều phải bắt được cái giọng của tác giả trong sáu câu triết luận mở đầu. Điều quan trọng trong đoạn mở đầu này không chỉ ở luật oái oăm, ác hại trong “cõi người ta”: tài mệnh tương đố, bỉ sắc tư phong, hồng nhan bạc mệnh. Điều quan trọng hơn cả là cái giọng mỉa mai, hờn mát, đay đả của tác giả khi nói đến những luật này:

Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau

Tác giả không thản nhiên ghi nhận cái luật oái oăm này. Thái độ tác giả bao hàm nhiều sắc thái. Từ “khéo là” có bao nhiêu nghĩa thì cái giọng của tác giả biểu hiện ở đây có bấy nhiêu sắc thái: mỉa mai, hờn mát, bỡn cợt, châm chọc… “Tài mệnh tương đố” không phải là tư tưởng của Truyện Kiều. Triết lý của Truyện Kiều là ở cái giọng của tác giả khi nói về tư tưởng này, nói ở chữ “khéo là” xen vào câu “tài mệnh tương đố”.

Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen

Cũng như cách phân tích ở trên, “bỉ sắc tư phong”, “hồng nhan bạc mệnh” không phải là tư tưởng đích thực của Truyện Kiều. Ở đây cái giọng của tác giả rất rõ. Trước luật cõi đời và luật của trời, Nguyễn Du là một người đáo để với cái giọng đay đả, đay nghiến của ông: “Lạ gì…” ở đây bộc lộ một thái độ dè bỉu, bực tức,  chán ngán. Khi ta nói “ lạ gì anh ấy” thì hoặc là ta dè bỉu, hoặc là ta bực tức, hoặc là ta chán ngán…anh ấy, chắc không phải là một thái độ thiện cảm.

Cái giọng văn của Nguyễn Du khi nói đến luật “hồng nhan bạc mệnh” bao hàm một thái độ đối với “trời xanh”, một cái giọng xẵng và có thái độ xấc. Với thái độ ấy và cái giọng ấy, nhà thơ có chửi luôn cả trời thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Nếu như “ trời xanh quen thói” thì sự “ má hồng đánh ghen” không thể là một điều tốt lành. “ Quen thói “ có nghĩa là làm theo quán tính. Có thể nói “ quen thói hại người”, không bao giờ nói “quen thói giúp người”. Làm điều thiện, dù rất nhỏ bao giờ cũng đòi hỏi sự nỗ lực. Mỗi lần làm điều thiện là một lần nỗ lực mới. Có thể làm điều thiện theo quán tính, nhưng như vậy có còn là thiện nữa không?

Trong câu tục ngữ “ Ăn không nên đọi, nói không nên lời” thì “nói không nên lời” là một sự đau khổ của con người. Năng lực văn nhất thiết phải bao hàm năng lực nói nên lời. Có ý, có từ đấy nhưng vẫn lúng túng chưa thành câu, hoặc câu văn có thành thì tẻ nhạt, bởi vì còn thiếu cái quan trọng nhất: thiếu khẩu khí, thiếu hơi văn, chưa có ngữ điệu, giọng điệu thích đáng. “Vạ miệng” nhiều khi chỉ là do không tìm được một giọng thích đáng để trình bày chân lý. Khi người ta có cảm hứng, dường như giọng và ngữ điệu nảy sinh trước và từ ngữ dường như được gọi đến thể hiện ngữ điệu và giọng điệu thành lời, thành câu. Lời và văn hình thành như vậy thường rất hoạt. Người giỏi văn không chỉ là dồi dào ý, giàu từ ngữ mà còn giàu ngữ điệu, giọng điệu. Mỗi lần cần đến, có thể tìm được ngay giọng nói hoặc ngữ điệu thích đáng. Vả chăng, ý hình thành chưa rõ, chưa dứt khoát nhừo giọng điệu trở thành rõ hơn, dứt khoát hơn. Người dạy văn giỏi tạo ra nhiều ngữ điệu, giọng điệu thích đáng, đa dạng, ăn sâu vào cảm nhận của học sinh và đây là một phần quan trọng trong tiềm lực văn của học sinh. Cảm hứng nào, giọng điệu ấy; nhưng cũng có thể ngược lại, giọng điệu định hướng sự hình thành cảm hứng. Ở trường phổ thông, đặc biệt cấp cơ sở, học thuộc lòng để thuộc ngữ điệu, tiết tấu cũng như đọc diễn cảm để thấm các giọng điệu của bài văn là hết sức quan trọng. Cũng phải thể tất cho giáo viên văn đôi khi “nói trạng” ở lớp. Tuy có lan man ngoài đề nhưng sự giàu có ngữ điệu và giọng điệu ở người có tài “trạng” sẽ để lại sự cảm nhận của học sinh những điều có khi còn quý giá hơn kiến thức. Đấy là chưa nói không khí hào hứng tạo ra trong lớp hết sức cần thiết cho sự cảm thụ văn học. Nói trạng hay cũng là một tài năng.

“ Văn học là nghệ thuật ngôn từ”. Dạy văn không chỉ có dạy ngôn từ, còn có một mục tiêu cơ bản hơn là xây dựng và bồi dưỡng ý thức ngôn từ. Có ý thức về sức khỏe còn quan trọng hơn là có sức khỏe. Có ý thức về ngôn từ là có ý thức về tính tích cực chủ động và khả năng sáng tạo của mình trong việc tiếp nhận và sử dụng vốn ngôn từ của xã hội. Là người có ý thức - không cứ gì trong đọc văn hay đọc sách báo, mà ngay cả trong giao tiếp hằng ngày- thường xuyên nhặt nhạnh những từ ngữ độc đáo, những cách nói đích đáng, những cách diễn đạt thần tình làm giàu cho vốn từ ngữ của mình, thường xuyên tiếp nhận những giọng điệu, ngữ điệu làm giàu cho khẩu khí, văn khí của mình.

Để bồi dưỡng ý thức ngôn từ cho học sinh, ở những lớp dưới, có thể cho các em làm quen với những cách nói láy, chơi chữ tài tình. Ở những lớp trên, có thể phân tích từ nguyên của từ, cảm nhận sự lấp lánh nghĩa đen và nghĩa bóng trong ngôn ngữ, cảm nhận sự trả lại nghĩa đen cho từ được dùng theo nghĩa đen, giúp cho các em thử nghiệm việc xé những cụm từ cố định để làm sống lại nghĩa của từ bị lờn mòn trong cụm từ cố định…Chẳng hạn, thường ta nói “ đau lòng”, khi Nguyễn Du nói “ đau đớn lòng” thì cụm từ cố định “đau lòng” bị xé ra và đau đớn làm sống lại ý nghĩa đích thực của từ “đau”. Tìm những thủ pháp nhằm kích thích, bồi dưỡng ý thức ngôn từ của học sinh, đó là một lĩnh vực còn mới mẻ của giáo học pháp giảng văn và đương chờ đợi những tìm tòi, sáng kiến của giáo viên văn học.

Có thức ngôn từ là có ý thức về sức mạnh của ngôn từ. Hơn ai hết, các nhà văn có ý thức về sức mạnh này. “Tôi biết sức mạnh của ngôn từ…ngôn từ là tướng của đạo quân sức mạnh con người” ( Maiakovsky). Nghĩa của ngôn từ càng hèn kém đi thì xã hội càng ít thành đạt trong tất cả những biểu hiện của nó. Ngôn từ là chìa khóa cho “tất cả”.

(In trong Những ngả đường vào văn học, NXB Giáo dục, 2006)

Thứ Sáu, 5 tháng 11, 2010

Tư liệu Xuân Diệu và Chế Lan Viên

Sự khác nhau trong quan niệm về thơ của
Xuân Diệu và Chế Lan Viên
Nguyễn Văn Khánh
Trong tiến trình lịch sử văn học Việt Nam, không có trào lưu văn học nào đủ sức làm nên Một thời đại trong thi ca (lời tổng kết của Hoài Thanh) như phong trào Thơ mới (1932-1945). Sở dĩ tác phẩm có được điều đó là do số lượng và chất lượng đặc biệt phong phú, mới mẻ và độc đáo của các tác giả, tác phẩm thơ. Mỗi hiện tượng thơ dù trong quá khứ hay đang hiện hữu trên thi đàn, nếu thực sự có giá trị thì luôn tạo được sự hấp dẫn đối với công chúng và sự quan tâm luận bàn của thế giới nghiên cứu. Xuân Diệu và Chế Lan Viên là những nhà thơ như thế.
Cả hai ông đều là những nhà thơ lớn của nền thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX mà sự tìm hiểu nghiên cứu vẫn nằm trong hệ thống mở, nó như một dòng chảy dạt dào không bao giờ ngừng nghỉ. Sự nghiệp văn học của hai ông mang một nghĩa đặc biệt quan trọng, đặt cơ sở cho việc xây dựng nền lý luận thơ ca hiện đại Việt Nam ở cả hai phương diện lý luận và thực tiẽn sáng tác.
Những điều hay, vẻ đẹp, nét độc đáo trong thơ của hai ông đã được phân tích nghiên cứu ở nhiều cấp độ và bằng nhiều phương pháp khác nhau. Tất cả đều đã đem đến những đóng góp khám phá mới đầy lý thú, trong đó có vấn đề quan niệm về thơ. Quan niệm về thơ thực chất là cách nhìn nhận đánh giá, cách hiểu về bản chất, chức năng, nhiệm vụ, mục đích của thi ca. Vậy quan niệm về thơ bộc lộ ở đâu và bộc lộ như thế nào qua hai nhà thơ lớn Xuân Diệu và Chế Lan Viên?
Thực tế cho thấy: quan niệm về thơ được bộc lộ khá rõ nét qua thơ, qua các bài phê bình tiểu luận, thậm chí ngay ở trong những lời trao đổi mạn đàm... của chính nhà thơ đó. Tuy ở mỗi thể loại, quan niệm về thơ bộc lộ với dáng vẻ và diện mạo khác nhau, nhưng xuyên chuỗi lại ta thấy nổi lên những quan điểm nhất quán mang tính quy luật trong quan niệm nghệ thuật của từng tác giả cụ thể.

Tư liệu Nguyễn Bính

Nguyễn Bính và hành trình đi tìm cái đẹp
Trần Thị Trâm
Trong Phong trào thơ Mới, “Xuân Diệu là người “mới nhất”, Hàn Mạc Tử “lạ nhất” và Nguyễn Bính “quê nhất” (1). Chính cái hương quê đậm đà ấy đã làm nên sức hấp dẫn của thơ ông:
Em là con gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già
Lòng trẻ còn như cây lụa trắng
Mẹ già chưa bán chợ làng xa
(Mưa xuân)
Dù trong giai đoạn nào, thơ Nguyễn Bính cũng đạt kỷ lục về xuất bản và vẫn chiếm được nhiều cảm tình của độc giả. Ngay cả hôm nay, sau những giờ làm việc căng thẳng, nhiều người lại lặng lẽ tìm về với những vần thơ trong lành, thánh thiện của ông như một sự ngơi nghỉ cho tâm hồn trở nên thanh tĩnh, để được sống lại trong khung cảnh xóm thôn yên ấm hòa mục, trong bầu khí quyển của văn hóa dân gian nghìn đời và được ru lòng mình trong điệu hồn dân tộc:
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê
(Chân quê)

Thứ Bảy, 25 tháng 9, 2010

Clip tư liệu học bài Đàn Ghi ta của Lorca

Federico García Lorca (1898 - 1936)

Bản nhạc Asturias - Tây Ban Nha

Bài hát của Thanh Tùng: Nếu tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn ghi ta

Thứ Bảy, 18 tháng 9, 2010

Khiêu vũ chuẩn bị trung thu 2010 - 6

Khiêu vũ chuẩn bị trung thu 2010 - 4

Khiêu vũ chuẩn bị trung thu 2010 - 5

Con đường trở thành “kẻ sĩ hiện đại” cuả Nguyễn Khắc Viện

 
Nhân kỉ niệm 12 năm ngày mất Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện Trung tâm N-T xin được trích dẫn một số bài viết viết về Nhà văn hoá Nguyễn Khắc Viện.
ĐỂ HIỂU ĐÚNG NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA bài Con đường trở thành "kẻ sĩ hiện đại" cuả Nguyễn Khắc Viện
(SGK Ngữ văn 12 Nâng cao, tập một)
 
Bài Con đường trở thành "kẻ sĩ hiện đại" được trích từ chương Noi theo đạo nhà trong cuốn sách Bàn về đạo Nho, công trình nguyên văn viết bằng tiếng Pháp đăng trên tạp chí LA PENSÉE (Tư tưởng) số 10 năm 1962 với tiêu đề : Khổng giáo và chủ nghĩa Mác ở Việt Nam.
Tên bài là do người biên soạn đặt dựa vào chủ đề của đoạn trích và gợi ý từ chính lời tác giả cuối đoạn trích nên đặt cụm từ "kẻ sĩ hiện đại" vào trong dấu ngoặc kép là đúng thể thức và có dụng ý hay.
Nguyễn Khắc Viện là một trí thức đa tài nên đã từng được gọi bằng nhiều danh hiệu: bác sĩ, nhà văn, nhà sử học, nhà tâm lý học, nhà xã hội học, dịch giả, nhà báo, nhà hoạt động trính trị..., gọi là gì cũng có lí; nhà báo Trường Giang thích "gọi ông bằng cái chức danh tổng hợp : Nhà văn hoá" (Báo Giáo dục và thời đại, ngày 01 - 03 - 1993); riêng với ông, ông thích nhất tên gọi mà nhiều Việt kiều đã ban tặng: sĩ phu hiện đại hay kẻ sĩ hiện đại. Như vậy, trước hết cụm từ "kẻ sĩ hiện đại" là chỉ đích danh một con người cụ thể: Nguyễn Khắc Viện. Song, trong lịch sử hiện đại Việt Nam, không phải chỉ một mình ông được gọi là kẻ sĩ hiện đại. Chẳng hạn, GS Hoàng Xuân Hãn, "người cùng thời với ông, cùng quê hương Hà Tĩnh, cùng sống một cuộc sống tươi đẹp, cùng đi suốt thế kỉ xx, cùng để lại cho đời nhiều trang sách có giá trị...", cũng từng được nhiều người gọi là "kẻ sĩ hiện đại", chỉ có điều khác nhau là "nếu Hoàng Xuân Hãn nghiêng về Tĩnh, nhưng Tĩnh trong Động thì Nguyễn Khắc Viện lại nghiêng về Động, nhưng Động trong Tĩnh" (Phong Lê, Nguyễn Khắc Viện - Phần đời tôi được biết trong Nguyễn Khắc Viện - Chân dung và kỉ niệm, NXB Khoa học Xã hội, H..,2007, tr. 277-291). Như vậy, "kẻ sĩ hiện đại" còn một hàm nghĩa rộng lớn hơn, đúng như SGK Ngữ văn 12 Nâng cao, tập một đã chú thích: "Người trí thức hiện đại thấm nhuần đạo lý nho giáo, có cốt cách của một nho sĩ chân chính". Ở phần đầu đoạn trích, Nguyễn Khắc Viện còn giải thích "kẻ sĩ tức tri thức" cho nên, có thể mở rộng cách hiểu cụm từ "kẻ sĩ hiện đại" là trí thức hiện đại nói chung.
Nguyễn Khắc Viện tự kể và phân tích quá trình tu dưỡng của mình, song, qua lời kết thúc đoạn trích, có thể thấy ông còn muốn gợi ý về hướng phấn đấu cho những người tri thức của một dân tộc có truyền thống đaọ lí ở đầu những năm sáu mươi của thế kỉ trước, "lúc nước nhà đã sang trang lịch sử" và đã mở ra "những con đường mới". Đó là hướng hiện đại phải gắn với truyền thống, phải xây dựng trên cơ sở truyền thống. Bước vào thế kỉ XXI, nước nhà cũng đã "sang trang sử" với "những con đường mới" đang mở rộng. Làm thế nào vừa đẩy mạnh hội nhập và giao lưu quốc tế, vừa giữ được bản sắc dân tộc, kế thừa và phát huy được tinh hoa của truyền thống dân tộc, đó là cơ hội đồng thời cũng là thách thức đối với chúng ta. Có đặt vào bối cảnh lịch sử ấy mới thấy hết nội dung và ý nghĩa của bài học, tính chất nhật dụng của văn bản.
Có thể chia đoạn trích thành hai phần (Phần thứ hai từ câu: Nhân Viện Hàn lâm Pháp tặng giải thưởng...) vì hai phần đó đã thể hiện được hai nội dung cơ bản của cả chương Noi theo đạo nhà: Phần đầu chủ yếu nói về "đạo nhà" (trong văn cảnh là Đạo Nho) và phần sau chủ yếu bàn về việc "noi theo" đạo nhà ấy. Nói "chủ yếu" vì nội dung của hai phần không tách bạch một cách rõ rệt mà có những chỗ đan cài nhau, đặc biệt là ở phần sau.
Tác giả giới thiệu "đạo nhà" như một đối tượng để "noi theo" nên đương nhiên là cần nhấn mạnh những mặt tích cực và không thể phân tích toàn diện. Không nên vì thế mà nghĩ rằng Nguyễn Khắc Viện là một người sùng bái Nho giáo. Hình như đoán trước có người sẽ hiểu nhầm thế nên ngay trong cuốn sách, phần nào ông đã thanh minh: "Tôi không phải là tín đồ của Đạo Nho, cũng không phải là một học giả hiểu thấu Nho học. Tôi thuộc một dân tộc đã mấy trăm năm đã thấm nhuần Đạo Nho, là con một gia đình Nho sĩ, truyền thống ấy nằm trong bản tính, dù có muốn bỏ đi cũng không được. Chỉ cố gắng cần nhận thức ra, cần cố gắng giữ lại những gì, bổ sung những gì". Cũng không nên nghĩ rằng Nguyễn Khắc Viện quá táo bạo khi nhận xét về những học thuyết, tôn giáo khác, đặc biệt là khi ông viết: "Mác trong đạo lí không được nổi bật và cụ thể như trong Nho giáo". Vì tên gọi của công trình vốn là Khổng Giáo và Chủ Nghĩa Mác ở Việt Nam nên Nguyễn Khắc Viện không thể không liên hệ Nho giáo với Chủ Nghĩa Mác, tìm ra những gì khác nhau và giống nhau, những chỗ tương đồng giữa hai học thuyết, điều kiện khiến cho những Nho sĩ tiến bộ thời cận - hiện đại có thể tiếp thu được Chủ nghĩa Mác. Mác là người sáng tạo chủ nghĩac duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, xây dựng học thuyết kinh tế và chủ nghĩa xã hội khoa học, vũ khí lý luận và hành động sắc bén của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống ách thống trị tư sản. Còn Nho giáo, chủ trương "tu tề trị bình", lấy "tu thân" làm gốc, nên bàn đến chuyện "đạo lí", "đạo đức", "xử thế" nổi bật, cụ thể và rõ ràng hơn là chuyện dễ hiểu. Không phải ngẫu nhiên, ngay trước luận điểm đó, Nguyễn Khắc Viện nhấn mạnh: "Phân tích xã hội, để hiểu rõ lịch sử, xác định đường lối thì Chủ nghĩa Mác hơn hẳn". Ở lời Bạt của cuốn sách, ông nhắc lại một lần nữa ý đó: "Tôi đồng ý phải đặt nhiệm vụ chính trị thành một trong những nối quan tâm hàng đầu, nhưng không phải chỉ trên cơ sở đạo đức, mà cả trên cơ sở khách quan, kinh tế, quan hệ các giai cấp, các dân tộc, theo tiến trình lịch sử như Mác đã phân tích".
Trong đoạn trích, Nguyễn Khắc Viện có nhắc đến vài khía cạnh của một vài học thuyết, tôn giáo khác mà ông không không tán đồng song cũng trong "Bàn về đạo Nho", ở một số chỗ khác, ông lại thừa nhận là các học thuyết và tôn giáo ấy có những điểm hơn hẳn Nho giáo mà chính ông đã tiếp thu: "Đạo Nho không giúp gì tôi trong việc chữa bệnh, tôi đã phải học thêm các thuật Yoga của Ấn Độ và khí công nhu quyền của Đạo giáo. Rồi kết hợp với sinh lí hiện đại, thành thuật dưỡng sinh". Như đoạn trích đã chỉ rõ, dưỡng sinh là một trong ba hướng tu dưỡng rèn  luyện chính của ông.
Trên đây là những điểm đặc biệt lưu ý khi tiếp cận văn bản Nguyễn Khắc Viện.
Trong phần đầu của đoạn trích, Nguyễn Khắc Viện nêu lên khá nhiều điều tâm đắc về Nhi giáo.
Trước hết là cái gốc duy lí của nó. Ai cũng biết Khổng Tử không nói chuyện quỷ thần, đến những vấn đề có tính chất siêu hình của con người sau lúc chết. Chính "cái gốc duy lí" ấy đã làm cho "đạo Nho không đối lập với khoa học, với học thuyết Mác".
Điều thứ hai là tính chất nhân bản "lấy con người, lấy cuộc sống xã hội làm gốc". Trong chương đầu của cuốn Bàn về đạo Nho, ông viết: "Khổng Tử là một trong những nhà tư tưởng đầu tiên của nhân loại đã tập trung mọi sự chú ý của con người vào những vấn đề thuần tuý của con người. Ông là nhà nhân văn chủ nghĩa đầu tiên theo đúng nghĩa của nó. Đọc lại sách Luận Ngữ, ta thấy hầu hết các câu truyện của ông đều xoay quanh chữ Nhân". Song, Nhân là gì? Gần ba mươi thế kỉ đã troi qua, nhưng cho đến nay, vẫn còn tranh luận về khái niêm này. Theo Nguyễn Khắc Viện "định cho nó một nội dung cụ thể rất khó, vì đó là đức tính tối cao, khiến con người trở thành "Con người" nhất". Song, "nếu cần phải định nghĩa nội dung chủ yếu thì có thể nêu lên bốn luận điểm:
·        Rộng lượng với mọi người (kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân: điều gì mình không muốn, chớ thi hành với người khác).
·        Hiểu biết để có một thái độ đúng trong mọi hoàn cảnh.
·        Dũng cảm nhận trách nhiệm.
·        Giữ mình đúng lễ.
Tóm lại là có tính người, có tình người".
Như vậy, trong rất nhiều khái niệm của Nho giáo, ông cho Nhân là khái niệm bao trùm, trong đó có bốn thành tố rất quan trọng: thứ (điểm thứ nhất), văn (điểm thứ hai), dũng (điểm thứ ba), lễ (điểm thứ tư).
Nội dung của đoạn này đã được Nguyễn Khắc Viện nhắc lại ở cuối phần đầu của đoạn trích.
Điều tâm đắc thứ ba là vẫn đề xử thế: "Trong mọi tình thế, đối với người này, người khác, với bề trên kẻ dưới, đối xử ra sao. Nhất là đối với ai có quyền lực, vương bá vua quan. Tôn trọng phong tục luật lệ của cộng đồng mà không để mất nhân phẩm của mình. Trung thành mà không ngu trung, không phải vua bảo gì là nhắm mắt tuân theo...Vào đời, kinh bang tế thế, nhưng cũng biết lúc nào cần rút lui, về dạy học, làm thuốc (như thân phụ của ông đã từ quan lúc 52 tuổi. H.H. thêm). "Lên gân" một tí, Mạnh Tử để lại mấy câu bất hủ: "phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất" (Lời Bạt, Bàn về đạo Nho). Trong đoạn trích, Nguyễn Khắc Viện tỏ ra thích thú khi nhắc lại câu chuyện về cách ứng xử của một nhà nho đối với vua Tề.
Nhân tiện, xin dịch đoạn đầu truyện Nhan Xúc thuyết Tề Vương quý sĩ (Nhan Xúc khuyên vua Tề quý trọng kẻ sĩ) trong Chiến Quốc sách để cùng tham khảo:
"Tề Tuyên vương tiếp kiến Nhan Xúc, bảo, Xúc, lại đây! Xúc cũng bảo: Vua, lại đây! Tuyên vương không bằng lòng. Các quan tả hữu nói: Vương là vua, Xúc là bề tôi. Vua bảo Xúc lại đây, Xúc cũng bảo vua lại đây, thế có đúng không? Xúc đáp: Nếu Xúc lại là vì ngưỡng mộ quyền thế, nếu vua lại là vì (thực lòng) hướng về kẻ sĩ. Bảo Xúc ngưỡng mộ quyền thế sao bằng khiến vua quý trọng kẻ sĩ?"
Điều tâm đắc thứ tư là tinh thần có mức độ, ứng xử vừa phải của đạo Nho. "Ứng xử vừa phải" có nghĩa là "không cực đoan". Trong lời Bạt của Bàn về đạo Nho, ông cho đây là điểm mà ông "tâm đắc nhất" và giải thích rõ hơn những điều đã nêu trong đoạn trích: "Đạo này - tức đạo Nho - cũng dạy lòng nhân, nhưng phật thì mở rộng từ bi cho mọi sinh vật, cả con ong cái kiến cũng như con người, Giê-su thì kêu gọi yêu mọi người như bản thân, vì đều là con của Chúa như nhau. Thầy Khổng Tử không cực đoan như vậy, mà bảo yêu mọi người, nhưng tôi yêu bố mẹ tôi, bà con tôi, dân tộc tôi hơn bố mẹ, bà con, dân tộc người khác".
Các đạo khác dạy lấy ân đáp cả ân và oán, ông Khổng bảo: lấy ân đáp ân, lấy công bằng sáng suốt mà đáp oán. Giê-su bảo: Ai tát anh má phải, cứ đưa má bên trái cho người tát tiếp. Một nhà Nho đối xử khác: bị tát một lần, biét tránh đỡ những cái tát khác, và nếu người ta quá hung hăng, biết tát lại..."
Trong phần sau của đoạn trích, nhiều điểm tích cực nói trên của đạo Nho được nêu lại song luôn được trình bày gắn với những trải nghiệm của bản thân, của gia đình, trước hết là thân phụ của tác giả, của các thế hệ tiền bối từ Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm cho đến Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu...Tác giả cho rằng có thông tất cả những trải nghiệm ấy mới hiểu được đạo Nho, mới thấy hết tất cả mặt mạnh, mặt yếu của nó.
Vấn đề trung tâm của phần này là tính chất và vai trò của đạo lí. Thế nào là đạo lí theo quan điểm của Nguyễn Khắc Viện? Qua các bài viết về ông, ta thấy có nhiều cách lí giải khác nhau, mặc dù không mâu thuẫn, bài trừ nhau. GS Phong Lê định nghĩa: "Đạo lí ở đây là cốt cách, nhân cách làm người. Trên cái gốc đạo lí ấy mà ứng xử để biết rõ các giới hạn phải dừng và các mục tiêu có thể đạt được" (Tài liệu đã dẫn).
Theo Đỗ Lai Thuý, đạo lí không phải là bản thân cốt cách hay nhân cách mà là "cái căn bản để tạo nên nhân cách", nó là tổ hợp những nguyên tắc cơ bản, bất biến chi phối mọi hoạt động ứng xử, ngôn hành của con người, "con người có thể ứng biến, tòng quyền, tuỳ nghi...nhưng không được xa rời đạo lí. Có giữ vững bản chất của nước thì mới linh hoạt như nước được" (Hành trình đến với chữ Tâm trong Nguyễn Khắc Viện - Chân dung và kỉ niệm, Sđd).
Có lẽ định nghĩa và khái niệm của Đỗ Lai Thuý là gần hơn cả với quan niệm của Nguyễn Khắc Viện: "Thời thế biến chuyển, tôi có thay đổi chính kiến, nhưng không hề thay đổi đạo lí. Đã gọi là đạo lí, không thể xa rời dù là chốc lát". Theo dõi những bài viết của Nguyễn Khắc Viện trong nửa thế kỉ, ta thấy trên một số vấn đề và hiện tượng cụ thể như kinh tế thị trường, hợp tác hoá nông nghiệp, Nhân văn - Giai phẩm...ông đã từng thay đổi "chính kiến"- và tất nhiên không chỉ một mình ông- song xuyên qua tất cả những biểu hiện tiêu cực ấy, ta vẫn thấy ở ông có những tố chất không hề thay đổi, đó chính là  những tố chất gắn liền với đạo lí.
Xin kể một câu chuyện để làm rõ ý này. Một hôm, tôi vừa đến thăm ông thì ông Mai Chí Thọ, bấy giờ là Uỷ viên Bộ chính trị, Bộ trưởng bộ Nội vụ ( nay là Bộ Công an) gọi điện mời ông đến chơi để trao đổi một vài vấn đề, nhân tiện thưởng thức thứ rượu đặc biệt có người vừa tặng. Tôi thấy ông trả lời ngay: "Tôi không biết uống rượu, vả lại, nay đã hưa, chỉ khi nào đụng đến việc công mới làm phiền đến xe cơ quan. Nếu có chuyện cần trao đổi, xin mời anh đến tôi chơi".
Ông Thọ vui vẻ nhận lời. Ông Viện bảo tôi ở lại cùng tiếp khách, dĩ nhiên tôi chối từ. Sau đó ít lâu, anh Lê Quang Thành, Viện trưởng Viện Khoa học Công an, người cùng đi với ông Thọ, có kể lại cho tôi nghe về buổi gặp gỡ thân tình và thú vị hôm đó. Quả thật khi vừa nghe ông Viện trả lời, tôi chợt liên tưởng đến câu chuyện về Nhan Xúc. Từ thời Chiến Quốc đến nay đã trên dưới 25 thế kỉ, quan hệ giữa ông Viện và ông Thọ là quan hệ đồng chí, nhưng rõ ràng ở câu trả lời của ông Viện, vẫn có cái gì đó phảng phất giống lời đối đáp của Nhan Xúc. Phải chăng đó là đạo lí, ở đây là đạo lí ứng xử?
Nguyễn Khắc Viện khẳng định rằng "đạo lí nhà Nho đã góp phần không nhỏ, tuy không phải tất cả", giúp ông "nên người", rằng ông Khổng vẫn là "một trong những bậc thầy lớn nhất" "đã giúp cho loài người tiến lên thành người" và cho đến thế kỉ XX, "nhiều điều ông dạy vẫn còn rất bổ ích", rằng "nhờ truyền thống ấy mà, dù có hấp thụ sâu sắc chủ nghĩa tự do cá nhân", ông "vẫn thấy mình nặng nợ với đất nước, với làng xóm, với phố phường, thấy mình có gốc, có rễ", một điều mà không ít bạn thân của ông, người Pháp, nhìn vào "có ý thèm muốn mà không đạt được".
Chính những điều đó đã tạo nên bản sắc của nền Văn hoá Việt Nam nói riêng và phần nào bản sắc của văn hoá phương Đông nói chung. Cần lưu ý là trong lúc so sánh với con người phương Tây, Nguyễn Khắc Viện đã có một thái độ khách quan, công bằng, nêu nhược điểm đồng thời với những ưu điểm vượt trội của nó: "Ba trăm phát triển tư bản đã làm con người phương Tây đứt hết gốc rễ, trở thành những cá nhân năng động, tự lập, tự chủ, nhưng cũng khá cô đơn".
Có người đồng nhất đạo lí và cách xử thế. Về mặt này, trong Bàn về đạo Nho, Nguyễn Khắc Viện cũng nêu lên một cách chí lí sự khác biệt với phương Tây: "Ngày nay, một số học giả Mỹ bày ra cái thuật huấn luyện những cái mà họ gọi là kĩ năng xã hội (socialskills) tức là thủ pháp, thủ thuật, cả thủ đoạn ứng xử trong cuộc sống xã hội, phần nào giống như thuật xử thế của đạo Nho. Chỉ có là theo lối Mỹ, thực dụng, không cần nói đến đạo lí, chỉ biết ứng xử cho thuận lợi. Đó là thuyết ứng xử cả kiểu cũ và mới (behaviorism neobehaviorism): họ thành công không ít nhưng nhiều khi lại rất ngây thơ hay tàn nhẫn, thiếu cái chiều sâu và lòng nhân của nhà Nho".
Tiếp thu tinh thần nhân văn của Nho giáo, song là một nhà văn hoá còn hiểu biết  nhiều học thuyết và tôn giáo khác của phương Đông, là một nhà hoạt động chính trị đã nghiên cứu lâu năm về chủ nghĩa Mác, từng là một bác sĩ nội trú ở Paris, sống ở một trung tâm của nền văn minh phương Tây gần 25 năm, dĩ nhiên hướng rèn luyện cho "nên người" của Nguyễn Khắc Viện không chỉ dừng lại ở chuyện đạo lí và xử thế. Hướng rèn luyện ấy đã được ông trình bày ở phần sau của đoạn trích và mô hình hoá như sau ở trang cuối cuốn Bàn về đạo Nho (Hình ảnh)
Cuối cùng xin lưu ý rằng đoạn trích là một văn bản dịch. Có thể phân tích, lập luận chặt chẽ, văn phong sáng gọn...song không nên đi sâu vào lĩnh vực từ ngữ, dẫu rằng bản dịch của Đào Hùng và Trần Văn Quý khá tốt và đã được tác giả xem lại trước lúc cho công bố ở Việt Nam.
Theo Hưng Hà Báo Văn học và Tuổi trẻ Số tháng 9-2008
Đăng tin Văn Tường (Trung tâm N-T)

Thứ Sáu, 10 tháng 9, 2010

Cảm nhận ĐÒ LÈN - Nguyễn Duy

  • CẢM NHẬN ĐÒ LÈN - Trần Thái Diễm Chi
Cuộc sống có những điều được gọi là nỗi nhớ, cứ xa xôi vô hình ; có những hình ảnh được gọi là hoài niệm mãi miên man, dằng dặc ; và có những tình cảm được gọi là yêu thương luôn ấm nồng sâu sắc mà thường đi xa rồi người ta mới biết cách gọi tên chúng. Ta gọi chúng như là hoài niệm,là nỗi nhớ , yêu thương …
Cuộc đời người ngắn ngủi như chiếc lá, thoáng chốc thôi cũng đủ  để mầm non chuyển sắc vàng. Người ta lớn lên, bon chen nhau mà sống để rồi biết bao lần lại tìm về  tuổi thơ trong những nỗi nhớ xa xôi như thế. Với Nguyễn Duy đó lại là cả một thế giới của “ Đò Lèn “ - nơi lắng kết những giá trị vĩnh hằng – bài thơ mà cái tên thôi đã gợi lên giữa lòng người nhiều suy nghĩ. Những người đã biết sẽ thấy quen thuộc nhưng những người không biết lại dễ phân vân: cái gì là “ Đò Lèn “ ? Hai tiếng ấy vô tình trở thành một khái niệm khó hình dung trong khi thực chất nó lại vô cùng giản dị . Nó không phải là con đò, là dòng sông, bến nước hay cái gì đó chợt nảy ra khi lần đầu nghe đến. Đò Lèn là tên một miền đất như bao miền đất khác, nơi đã tạo nên tuổi thơ, hình thành hoài niệm trong bao lớp người xứ Thanh Hóa :

                                Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
                                níu váy bà đi chợ Bình Lâm
                                bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
                                và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần 
Tuổi thơ được tác giả gợi lên với hình ảnh của bà, với những trò chơi thuở nhỏ.Ở đó có cậu nhóc nào ham chơi mải mê câu cá, có cô bé nào nũng nịu : níu váy bà” ra chợ mua quà. Cái cống Na và chợ Bình Lâm hẳn đã là cả một thiên đường của nhà thơ. Ông viết nó giản dị và chân thật như vừa đem từ cuộc sống vào chứ không chỉ từ một nỗi nhớ thôi. Nào là đi bắt chim sẻ, rồi đi ăn trộm nhãn của chùa, ..., được lang thang trên đồng ruộng, trong những ngôi chùa,  khu vườn rộn ràng tiếng chim kêu. Không gian mở ra rộng lớn và mênh mông thỏa mãn tính hiếu động, đam mê khám phá của tuổi nhỏ, đưa chúng hòa nhập vào thiên nhiên, đất trời. Được chơi đùa, được nghịch ngợm thoải mái mới thấy hết niềm thích thú vô tận. Đó thật sự là tuổi thơ đúng nghĩa, khác hẳn với không gian nhỏ bé bao quanh bởi 4 bức tường chật hẹp bây giờ. Ta có thể hình dung ra trước mắt là hình ảnh một cậu bé tinh nghịch, lấm lem nhưng mắt sáng ngời. Không có quần áo đẹp, không có búp bê, siêu nhân , những tuổi thơ như thế hôm nay chỉ còn phảng phất trong nỗi nhớ người trưởng thành, trong ánh mắt lạ lẫm háo hức của trẻ con khi xem phim, đọc truyện ngày trước- cái thời của ba, của ông mình. Đoạn thơ như một cuốn phim quay chậm miên man , dằng dặc trôi đi : 
                             Thưở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
                             chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
                             mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
                             điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng 
Trở về tuổi thơ ta nhận ra niềm hạnh phúc ngây thơ, trong sáng với  đôi chân nhỏ bé thoăn thoắt khắp nơi, ru mình trong làn hương và điệu hát. Bàn “ chân đất “ đã trở thành hình ảnh không thể nào quên đối với mỗi người, cái cảm giác được trực tiếp chạm chân vào đất mát lạnh đến vô cùng, nó ghi dấu hành trình những đêm lễ xa xôi. Và cũng như thế, mùi huệ trắng , làn khói trầm, điệu hát văn đã đi vào từ vô thức ! Tất cả chúng góp phần hình thành tuổi thơ đầy hồn nhiên , tinh ngịch trong tâm hồn mỗi người đã đi qua tuổi thơ, nhiều khi phải xin “ cho tôi một vé đi tuổi thơ “. 
Từ ngày ấy  đến bây giờ là cả một quá trình con người lớn lên, hình thành nhận thức. Ngày còn nhỏ  vô tư, không lo nghĩ : 
                          Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
                          bà  mò cua xúc tép ở đồng Quan
                          bà đi gánh chè xanh Ba Trại
                         Quán Cháo, Đồng Giao thập những đêm hàn
Bà hiện lên trong cuộc sống của cháu lặng lẽ, âm thầm… Cái đầu non nớt và trái tim nhỏ dại đâu biết thế nào là nỗi cơ cực, nhìn mọi việc rồi cũng sớm quên đi. Không trách được bởi lẽ trẻ con đâu thể sâu sắc như người lớn mà hoặc giả có sâu sắc thì tâm hồn đã chai sạn đi rôi đâu còn là trẻ con với nét thơ dại- cái thơ dại được ấp ủ bằng mồ hôi và nước mắt bà. Yêu thương cao thượng giúp cho tâm hồn tránh những bão dông .
Ngày còn nhỏ, yêu bà  là yêu những câu chuyện cổ tích lung linh huyền  ảo : 
                           Tôi trong suốt giữa hai bờ hư thực
                           giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh , thần
Bà thổi vào tâm hồn non nớt cái hồn dân tộc bao thế kỉ trong dân gian. Truyện bà kể lung linh sắc màu cổ tích, mang cháu đến với thế giới của những phép màu kì diệu : Cô Tấm chui ra từ quả thị, Lọ Lem sánh duyên cùng hoàng tử . Bà có mái tóc bạc phơ, có nụ cười hiền như bà tiên trong truyện kể. Bà dọa cháu rằng chằn tinh rất dữ, bảo cháu phải nghe lời,… Nhiều, và nhiều lắm… Chính những câu chuyện đã giúp cháu biết yêu cái thiện, ghét điều ác, có ước mơ và hy vọng. Thỉnh thoảng, tìm về tuổi thơ là tìm đến những điều như vậy, nghe lòng mình kể lại lời bà ấm áp. Tâm hồn sẽ được thanh lọc và trong sáng hơn. Cái ranh giới hư thực trong suốt như chính tuổi thơ con người vậy. Dễ tin, dễ nhớ và cũng dễ quên .

Lớn lên một chút cũng là lúc phải đối mặt với hiện thực , cái  đói trở thành nỗi ám ảnh triền miên :
                            cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng
                            cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm
Đọc câu thơ ta bỗng nhớ về khoảng thời gian : 
                              Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
                              Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
                              Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
                              Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
 
Nạn  đói những năm 45 như một nỗi kinh hoàng rải khắp  đất nước. Củ dong, củ riềng cũng thành bạn, sượng sùng nhưng đáng nhớ , đáng thương. Mùi huệ  trắng hương trầm cũng phảng phất như cái thoáng trở về bình yên… Những đứa trẻ ngây thơ mơ về một mùi hương đã lắng sâu vào đất, tâm hồn, thân thuộc và rất đỗi bình dị. Đói kém không làm mờ đục tấm lòng trong sáng của trẻ thơ mà ngược lại nó còn gợi nên những mơ ước , cảm tình thầm kín nhưng đáng yêu.
Còn lại gì giữa nỗi nhớ cái bình yên ngày  trước ? Nó có là hoài niệm thương đau , chua xót ?
                               Bom Mỹ giội, nhà bà tôi bay mất
                                    đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
                                    thánh với phật rủ nhau đi đâu hết
                                    bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn
Quê hương ngày khốc liệt in sâu vào tiềm thức khi mà những hình ảnh sự vật thân thuộc bị hủy hoại. Bom đạn không chỉ phá nát đất quê hương mà còn xóa nhòa đi tuổi thơ tươi đẹp. Bên cạnh không gian thiên đường thuở nào là đổ nát, hoang tàn. Nhà bà, đền, chùa, tất cả tan biến đi dường như quá nhanh đối với những đứa trẻ chưa kịp lớn hoàn toàn. “ thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết “ lay dậy niềm xót xa, như khẽ chạm vào vết đau nhạy cảm. Cái boăn khoăn hết sức trẻ con  lại là niềm đau trong lòng người hiểu chuyện như bà. Không còn quá ngây thơ, có lẽ lũ trẻ hôm nào đã hiểu được cái nguyên cớ đằng sau nó. Nhưng như chưa tin vào chính mình nên mới thành nỗi băn khoăn chưa dám hỏi. Không còn nữa thánh, Phật mơ hồ, huyền diệu, thực tế dữ dội đối lập lại hoàn toàn. Còn bà vẫn vậy, lam lũ tháng ngày: “ Bà tôi đi bán trứng ở ga lèn”
Khi lớn lên , con người nhận thức được đầy đủ hơn, làm thành một hành trình trở về man mác:  
                                   Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
                                   dòng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi
                                   khi tôi biết thương bà thì đã muộn
                                   bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi. 
Tình cảm tập trung hướng về bà, con người lam lũ ngập tràn yêu thương. Bà nuôi lớn cháu để hôm nay cháu trở về đây chững chạc, đàng hoàng. Cháu đã và đang là một người lính bảo vệ mảnh đất này, bảo vệ những tuổi thơ như cháu ngày xưa. Chút gì là hối tiếc, yêu thương muộn màng. Đời người mấy ai mà vẹn tròn tất cả ! Con sông kia cũng bên lở bên bồi như người vậy. Bảo rằng đã muộn nhưng chưa bao giờ là quá muộn cả. Yêu thương đâu cần biểu hiện rõ, cháu lớn lên thành người đã là cách thương bà tuyệt diệu nhất. Giờ đây đứng trước mộ bà những vất vả hy sinh ngày xưa càng trở nên thấm thía. Bà đã đi mang theo tất cả những điều đẹp nhất của tuổi thơ cháu bình yên trong khó nhọc. Mất đi không phải là kết thúc. Bà không còn- cháu lớn lên cống hiến cho đất nước, đó là cách tiếp nối sự sống đầy ý nghĩa. Nấm cỏ của bà chôn chặt mọi niềm đau, giữ lại miền ký ức trong sáng cho con người tìm về lúc mỏi mệt.  
Đất nước mình có biết bao người bà như thế! Bà là hiện thân cho phụ nữ Việt Nam hiền hậu, tảo tần hôm sớm. Những ngày đất nước chiến tranh, bà thay cha mẹ nuôi nấng con cháu, giữ cho cháu trọn vẹn một tuổi thơ. Đâu đâu ta cũng nghe nhắc về bà như một hình ảnh thiêng liêng nhất. Người bà đi vào trái tim mỗi người như một lẽ tự nhiên, là miền ký ức vĩnh hằng :  
                                   “Tiếng gà trưa
                                   Mang bao nhiêu hạnh phúc
                                   Đêm cháu về nằm mơ
                                    Giấc ngủ hồng sắc trứng.”
 
Bà , tuổi thơ và những hình ảnh thân thuộc bình dị trong cuộc sống tạo nên giá trị cao đẹp nhất. Đi tìm đâu cái xa xôi khi mà hạnh phúc luôn song hành trong cuộc đời mỗi người. Nó là tình yêu thương vô điều kiện, là những tháng ngày vui chơi thỏa thích. Chúng như mảng màu rực rỡ chiếu sáng tâm hồn, hướng con người về chỗ cái đẹp, cái thiện căn: “Nhân chi sơ tính bổn thiện” .
Cùng với bà , quê hương Đò Lèn hiện lên sống động giữa tuổi thơ chan hòa. Nó hiện diện trong cái nghịch ngợm thiếu thời, trong từng giấc mơ trẻ thơ, là nơi con người vẫy vùng, ngụp lặn. Mảnh đất khi thanh bình, lúc đau đớn oằn mình vì đạn bom nhưng lúc nào cũng phảng phất hương huệ thơm ngần, cái thứ hương vị đã trở thành đặc trưng tồn tại giữa tiềm thức.Đò Lèn của cống Na, chùa Trần, con sông 2 bờ bồi lở , cái tên mộc  mạc mà chân tình thiết tha. Đò Lèn – nơi đó có bà, có cháu, có tất cả hoài niệm yêu thương tồn tại vĩnh hằng cùng nỗi nhớ !
  • BÀI VIẾT CỦA NGUYỄN THỊ THANH NHÀN
Điều quý giá nhất đối với mỗi người có thể khác nhau, song quan trọng nhất là ta biết trân trọng và gìn giữ giá trị ấy như thế nào. Thật vậy, đối với Nguyễn Duy, tình cảm gia đình, đặc biệt là tình cảm bà cháu luôn là một ký ức đẹp trong tim. Qua Đò Lèn, tác giả đã bộc lộ những suy nghĩ sâu lắng về bà gắn liền với sự tỉnh ngộ, nhận ra được tình thương vô bờ mà bà dành cho cháu....

Nhà thơ đã thể hiện hình ảnh của người bà qua sự hồi nhớ:

Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh ở Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn....

Đó là tất cả những cơ cực, vất vả mà người bà đã tảo tần nuôi đứa cháu. Trong cái đói, cái khổ của thời xưa, nổi bật lên trên ấy chính là hình ảnh lam lũ của bà. "Bà mò cua xúc tép", đó là những việc làm hàng ngày để kiếm cái ăn chăm lo cho con cháu. Ẩn hiện trong câu thơ hình ảnh bà còng lưng, nhẫn nại mò cua bắt ốc, không quản khó nhọc để niềm vui ánh lên trong những đôi mắt thơ ngây của cháu khi có miếng ăn... Thế nhưng xúc động hơn cả là hình ảnh bà đi gánh chè đêm đêm. Cái khó cái khổ đè nặng trên đôi vai gầy của bà, thể hiện trong từng bước chân "thập thững". Chi tiết đó đủ khắc họa lên được bao nhiêu nhọc nhằn, khó khăn của đời bà. Bước thấp bước cao lần đi trong "những đêm hàn" buốt giá, bà trở nên bé nhỏ, liêu xiêu, nhưng chất đầy sự thương yêu đối với con cháu, để làm nên một sức mạnh có thể chống chọi được với gió đêm, để có thể tiếp tục làm việc nuôi cháu. Bà hiện lên với sự mảnh mai, nhỏ bé nhưng trên đôi vai bà gánh chè rong như gánh cả một gia đình, một tương lai của con cháu. "Mò cua xúc tép", "gánh chè xanh" là cả một cuộc sống vất vả mưu sinh. Tuy tác giả không nói đến, nhưng hình ảnh người bà hiện lên in đậm dấu thời gian. Một người bà chịu thương chịu khó bền bỉ trong cuộc sống lam lũ, khuya sớm tảo tần. Để rồi từ đó tác giả thể hiện niềm xót xa, ái ngại cho bà. Qua hình ảnh ấy ta nhận ra đâu đó thoáng chút hình ảnh người mẹ thân thương ở thi phẩm Bên kia sông Đuống:

Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp bên bờ tre hun hút
....
...Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ...

Cũng từ trong ướt lạnh sương gió, người mẹ hiền từ với hình ảnh "bước thấp bước cao", nhọc nhằn trên đôi vai mẹ gánh hàng rong mong kiếm được miếng ăn, tất cả cuộc sống và tương lai của các con phụ thuộc vào gánh hàng rong của mẹ. Không biết bao nhiêu người con sông Đuống đã lớn lên sau gánh hàng rong ấy. Để rồi từ đó hình ảnh người bà, người mẹ hiện lên với đức hi sinh và tấm lòng bao dung to lớn....

...Thế nhưng, nhà thơ nói đến những điều ấy với tâm trạng "Tôi đâu biết..." khắc họa được những nghẹn ngào trong câu nói. Đó là cả một tuổi thơ nghịch ngợm, vô tư và hồn nhiên gắn với những trò chơi, trò đùa nghịch của trẻ con như câu cá, theo bà đi chợ, bắt chim, ăn trộm nhãn, chơi đền, xem lễ... Thế nhưng để cháu được như thế, bà đã phải nhọc nhằn như thế nào. Qua đó thể hiện sự vô tư đến vô tâm, vô tính của người cháu. Phải chăng lúc ấy cháu còn thơ bé để ngẫm đến những cực khổ của bà!

Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực
giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần
cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm....

"Trong suốt" khắc họa nên sự vô tư, ngây thơ, hồn nhiên của tác giả lúc bé. "Hai bờ hư - thực", hai thế giới khác nhau. Một thế giới hiện hữu với tất cả tình yêu thương của bà, và thế giới hư ảo, vô thực của những "tiên, Phật, thánh, thần", những câu chuyện cổ tích...  Nhà thơ không sống tất cả vì hiện tại, vì tình thương của bà, mà mải bận mơ về những chuyện hư ảo. Điều đó cho thấy tác giả sống với thế giới hư và thế giới thực lẫn lộn với nhau. Để rồi hai câu thơ sau nhấn mạnh mức độ của sự lẫn lộn ấy: những mùi hương cứ trộn lẫn lại với nhau. Hiện thực khó khăn "năm đói" làm người bà càng phải khổ cực hơn nữa. Cậu bé nhỏ khi ấy chỉ biết vui chơi chứ chưa biết nghĩ đến bà mình, lại không nhận ra giá trị "củ dong riềng luộc sượng" vất vả bà kiếm được, không biết thương bà, vô tâm, vô tính trước nỗi cơ cực của bà... Để rồi sau này, khi tác giả đã lớn, đã trưởng thành, đã nhận ra được tình yêu thương của bà dành cho mình, đã biết thương yêu bà thì bà chỉ còn là nấm cỏ:
Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi.....
 Lúc này cháu đã trưởng thành trong nhận thức về cuộc đời, không còn sống trong niềm tin về sự gần gũi, tương đồng giữa hai thế giới thực và ảo, mà đã "đi lính", đã biết cầm súng chống lại cái ác cái xấu. Quê hương vẫn còn đấy, những địa danh vẫn còn lưu giữ những kỉ niệm tuổi thơ, "dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi", nhưng hình bóng của bà thì không còn nữa. Sự thức tỉnh gắn liền với sự ân hận bởi lúc cháu biết thương bà thì cơ hội đền đáp đã không còn. Chính sự tỉnh ngộ ấy khiến cho tình thương bà càng tức tưởi xót xa vì tất cả đã quá muộn màng...

 Thật vậy, trong cuộc đời mỗi con người, ai cũng có điều đáng để hối tiếc. Nhưng quan trọng nhất phải biết sống sao cho trọn vẹn với tất cả, nhất là những người thân yêu của mình. Đừng để khi có tình thương ấy mà không nhận ra, không biết gìn giữ, không biết trân trọng với những gì mình đang có cũng như để những thương yêu ta phải buồn lòng; mà mải mê mong muốn, theo đuổi những giá trị xa vời để rồi khi nó mất đi ta mới biết thương, biết quý thì tất cả cũng đã quá trễ, quá muộn...
  •  BÀI VIẾT CỦA ĐỖ LÊ BẢO DUYÊN
"Quê hương là gì hả mẹ?
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hả mẹ?
    Ai đi xa cũng nhớ nhiều..."
Mỗi người sinh ra đều có một quê hương. Dù có ngược xuôi giữa biển lớn cuộc đời, dù thời gian có đổi thay, dù hạnh phúc hay đớn đau, vui buồn sướng khổ thì quê hương cũng là nơi để ta quay bước chân trở về nương tựa, tìm chốn bình yên.Bởi nơi đó chất chứa những kỉ niệm tuổi thơ một thời và tình cảm ấm áp, hồn hậu của gia đình. Là một trong số những bài thơ hòa vào cảm xúc ấy, "Đò lèn" của Nguyễn Duy đã đưa mỗi người trở về miền kí ức xa xăm với tuổi thơ gắn liền với bao kỉ niệm bên người bà yêu thương.
"Đò Lèn" - hai chữ giản dị, mộc mạc nhưng lại gợi lên tất cả những gì đẹp nhất và thân thương nhất. Ngay từ đầu, nhan đề bài thơ đã đưa đưa người đọc về với không gian mang đậm dấu ấn làng quê Bắc Bộ.Tuổi thơ là những ngày mẹ mất sớm, sống cùng với tình yêu thương bên người bà và miền quê mộc mạc, một cách tự nhiên, "Đò Lèn" bước vào những trang thơ với tất cả tình cảm yêu thương và chân thành nhất mà tác giả đã dành trọn cho quê hương. Bằng ánh nhìn của người con trở về, nhắc lại những kỉ niệm ngày xưa với hình ảnh người bà xuyên suốt, Nguyễn Duy đã khơi gợi lên những xúc cảm chân thành và chút man mác trong suy tư của mỗi người.
Tuổi thơ là những ngày đẹp nhất và trong sáng, hồn nhiên nhất. Bởi nó trôi qua không phiền muộn, luyến tiếc mà hết sức tự nhiên, giản đơn. Chính vì thế trong lòng mỗi chúng ta luôn lưu giữ và nâng niu những kỉ niệm đẹp đẽ ấy bằng tất cả lòng trân trọng và chân thành. Và cũng như mọi người, tuổi thơ Nguyễn Duy cũng trôi qua bình lặng, êm đềm:
"Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần"
Kỉ niệm tuổi thơ tinh nghịch , dễ thương ùa về trong tâm trí nhà thơ tạo nên cảm giác thích thú, vui tươi. Những thói quen "câu cá", "níu váy bà đi chợ", "bắt chim sẻ", "ăn trộm nhãn" trở nên hết sức quen thuộc trong tuổi thơ của tất cả các cậu bé và cô bé. Ta có thể hình dung một cậu bé hiếu động, tinh nghịch luôn tìm cho mình những phút giây vui thích của cuộc sống. Đó là những ngày thơ thẩn ôm cần chờ cá cắn câu, là những ngày tò mò pha chút rụt rè, sợ hãi theo bà đi chợ, là những khoảnh khắc nín thở hái trộm nhãn cùng bạn bè. Thấp thoáng trong tuổi thơ bình yên ấy là không gian của những ngôi chùa mang đậm dấu ấn văn hoá đặc trưng của quê hương và hình ảnh người bà hồn hậu giàu tình yêu thương. Trong kí ức của Nguyễn Duy in đậm dấu ấn của những phong tục tập quán đặc trưng của người dân bản xứ. Yên bình, nhẹ nhàng nhưng cũng mang chút gì đó sâu thẳm, lắng trầm đọng trong sắc huệ trắng tinh khiết và mùi nhang trầm thoang thoảng chút hơi thở, hoài niệm của quê hương, tuổi thơ trong sáng của nhà thơ cứ thế trôi qua tự nhiên cùng năm tháng:
"Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng"
Không những thế, tuổi thơ còn gắn với hình ảnh người bà lam lũ, cơ cực. Bằng giọng tiếc nuối và xúc động, tác giả nhắc về tuổi thơ cũng là gợi nhắc về người bà vất vả lo toan:
"Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn"
Có ai nào biết mình đã vô tình lãng quên những gì quen thuộc, gắn bó nhất với cuộc đời ta. Cậu bé ấy mải mê với những thú vui thích và những tiếng cười trong trẻo nào có biết đến nỗi cơ cực đắng cay của bà. Vừa là bà, vừa là mẹ, bà ngoại của Nguyễn Duy dồn hết tình yêu thương cho con cháu, lam lũ và cam chịu những đắng cay cốt để có thể cải thiện những khó khăn cuộc sống lúc bây giờ. Bà đã làm tất cả những công việc có thể, từ việc nặng đến việc nặng đến việc nhẹ, dù gần hay xa, thời tiết có khắc nghiệt đến mấy cũng cười hồn hậu khi mang về cho con cháu những hạnh phúc nhỏ nhoi, đơn giản. Cái dáng nhẫn nại lội sông suối, tất bật trong đêm lạnh giá làm ta nhớ đến cánh cò cơ cực trong ca dao:
"Cái cò lặn lội bờ sông..."
Bà cũng như cánh cò, mong manh, yếu đuối, lầm lụi vượt qua tất cả để che chắn, chắt chiu giữa biển đời đầy khổ cực. Đáng lẽ trong những đêm như thế, phải được ngủ trong chăn ấm thì bà lại lặn lội đến nhiều nơi,...tất cả đã in đậm vào trong tâm trí của tác giả. Trải theo bước chân của bà là những con đường quê hương gần gũi, thân quen mở ra với đồng Quan, Ba Trại, Quán Cháo, Đồng Giao - cách xa với nơi ở của tác giả. Vùng đất nhiều màu sắc gắn liền với hình ảnh người bà và những kỉ niệm tuổi thơ bây giờ chợt trở về, ngâm nga trong lòng tác giả chút gì tiếc nuối, ăn năn. Nưng tuổi thơ ấy còn in đậm dấu ấn của nạn đói:
"Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực
giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh thần
cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm"
Nạn đói bủa vây lấy cuộc sống của người nông dân. Họ đã cơ cực, thiếu thốn trăm bề nay lại còn đói khổ hơn gấp ngàn lần. Củ dong riềng luộc sượng hoang mang, mặt chát giọt nước mắt đắng cay thầm lặng của bà trong đó. Cậu bé kia ngơ ngác giữa những gì gắn bó suốt bao ngày hồn nhiên, nay sao như chợt thay đổi một cách vô hình. Nạn đói đã làm cho con người không còn mơ mộng hay hướng mình vào những điều hư vô. Người ta lo tất bật ngược xuôi để lo từng miếng ăn, cái mặc. Nhưng với những đứa trẻ, những đổi thay ấy thật khó hình dung và thích nghi nhanh được. Chính gì thế mà những suy nghĩ, băn khoăn không hề được giải thích rõ ràng. Một bên là thế giới hư vô, linh thiêng của tiên, Phật, thánh thần, một bên là người bà đang đối chọi với hiện thực đầy đau thương, cậu bé chìm đắm vào ranh giới thực hư vô hình. Đặt bà vào khoảng cách với tiên , Phật , thánh thần bằng tất cả suy nghĩ hồn nhiên thơ trẻ, phải chăng cậu bé đã xem bà hiền lành, nhân từ như những vị có thể cứu nhân độ thế? Phải chăng đó là nỗi ước vọng giản đơn muốn cuộc sống được cải thiện nhờ vào phép màu của thần linh? Hay phải chăng trong tâm thức ấy, bà là cầu nối giữa bến bờ thực - hư cổ tích - hiện thực? Bà đưa cháu đến những ước mơ lấp lánh, giúp cháu hiểu ra giữa hiện thực cơ cực làm người lớn phải tất bật thì tâm hồn trẻ thơ mơ mộng làm cuộc sống tinh thần bớt khổ, bớt lo. Chính bà đã nuôi dưỡng cho cháu những niềm tin, suy nghĩ và khát vọng chân chính, nuôi dưỡng cho tâm hồn tinh tế đầy nhạy cảm, để mai này chợt rung động và khắc khoải trong những vần thơ giữa cuộc đời. Thực hư, hư thực, những cảm giác ngây thơ trong sáng ấy chợt lung linh, mông lung hơn khi một lần nữa phảng phất mùi huệ trắng hương trầm. Có lẽ mùi hương này đã in dấu đậm nét trong thơ Nguyễn Duy. Trong bài thơ "Ngồi buồn nhơ mẹ ta xưa", nó đã thổi vào lòng người chút bâng khuâng, băn khoăn khi gợi về nỗi nhớ da diết:
"Bần thần hương huệ thơm đêm
Khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn..."
Vâng, hương huệ ấy, khói nhang ấy gợi về nỗi nhớ, đưa ta đến những khát vọng đến với không gian linh thiêng, ảo mộng bây giờ lại thoang thoảng trong những câu thơ khắc khoải khi nhắc về bà, về mảnh đất quê hương. Dường như mùi huệ tinh khiết, khói nhang thơm nồng vẫn còn phảng phất đâu đây trong những bài thơ, trong tâm trí người đọc. Nó làm hồn người trở nên bần thần, quên đi hết những đau khổ trần ai phải đối mặt. Và để đến khi hồn người đã trong trẻo, ngân nga thì nó lại làm dâng lên cảm giấc cay nồng nơi sống mũi, nước mắt chợt rưng rưng. Nước mắt ấy là bởi khói nhang hay bởi nỗi xúc động khi chứng kiến hiện thực khốc liệt, chứng kiến những đắng cay mà bà phải trải qua? Tình cảm yêu thương, trân trọng bà bây giờ đã trở nên thiêng liêng, đáng quý và thanh sạch hơn bào giờ hết. Nó như mùi huệ trắng tinh khôi, mùi nhang trầm ấm nồng mà không có chút bụi nào có thể vương vấn vào. Tình cảm cháu dành cho bà, mãi vẹn nguyên như thế, trong sáng như thế ngay cả trong suy nghĩ và cảm thức, trong kí ức và cả trái tim. Chút gì linh thiêng, man mác còn đọng lại đâu đây, đưa cháu về đến những kí ức đẹp với bà, với thời gian đã xa...
Nhưng rồi đột ngột, tuổi thơ chợt bay biến theo tiếng bom đạn và sức càn quét của giặc Mỹ.Những kỉ niệm bên bà, bên không gian quen thuộc không còn nữa, tất cả đã bay lên theo nỗi tiếc nhớ , hoài mong. Chẳng còn yên bình, nhẹ nhàng, bây giờ chỉ còn nỗi lo lắng, ái ngại về hiện thực:
"Bom Mĩ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn"
Căn nhà những ngày gắn bó và ăn học, đền Sòng những ngày ngơ ngác chân đất đi xem lễ hội, chùa chiền những ngày hái nhãn trộm, bắt chim giờ đã bay đi tất cả, đẻ đi đến một thế giới xa xăm mà không bai giờ có thể tìm lại được. Chiến tranh khốc liệt gây bao đau thương tang tóc, làm những ngày tuổi thơ êm đềm bị chôn vùi, vụt tắt, nhưng trên hết nó đang bủa vây lấy người bà tội nghiệp. Giọng thơ có phần trách móc khi nói về hiện thực. Người ta thường cầu mng ở những bậc siêu nhiên điều bình an, hạnh phúc, nhưng bây giờ chẳng có hạnh phúc mà chỉ lại có mình bà lại cặm cụi chắt chiu từng chút một, phiêu diêu nhiều nơi. Bà giờ đây phiêu dạt trên sân ga, bán từng quả trứng, nâng niu từng sự sống, trân trọng từng hơi thở, nhịp tim. Phải chăng trong suy nghĩ của tác giả, bà bây giờ cũng giống như tiên,Phật,thánh thần, gửi những hạnh phúc, sự sống theo hành trình của chuyến tàu về những nơi khác? Bà đứng ở sân ga để chắt chiu, chu cấp cho cuộc sống nhưng cũng là để dõi mắt theo những chuyến tàu, trông đợi bước chân cậu bé ngày xưa đi lính trở về. Bà đã chờ cùng tháng năm, cùng hành trình của cuộc kháng chiến, cùng khổ đau....nhưng chỉ tiếc, khi cháu trở về thì bà đã không còn nữa:
"Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi."
Thời gian qua, tuổi thơ cũng qua, bây giờ miền quê ấy đón bước chân trở về của cậu bé năm nào. Cũng vẫn là những không gian quen thuộc, dòng sông nối liền quá khứ, hiện tại vẫn chảy tràn trong tâm trí người trở về, nhưng man mác nỗi đau khi vắng bóng người bà yêu thương. Bà đã nằm xuống đất, hòa mình vào với cỏ cây, đi đến thế giới linh thiêng trong truyện cổ tích thuở thiếu thời của cậu bé. Cái dáng cam chịu, lam lũ, tất bật không còn nữa, thay vào đó là khoảng trống vô hình đang lan rộng ra trong trái tim. Cậu bé bây giờ đã lớn, đã từng trải với cuộc đời, những suy nghĩ, cảm thức hồn nhiên không còn nữa, chỉ có tình yêu thương bà vẫn dạt dào, vẹn nguyên. Cảm xúc nhịp nhàng trôi chậm theo nhịp thơ lặng lẽ giờ đây được thẻ hiện chân thành, rõ ràng hơn bao giờ hết. Không bóng bẩy, hào nhoáng, không hình thức phô trương, tình cảm của cháu dành cho bà giản đơn nhưng sâu thẳm, bền bỉ.
Tuổi thơ trải dài theo nỗi nhớ, gắn với kí ức và hình ảnh người bà quen thuộc thân thương. Trải qua những biến cố cuộc sống, những đổi thay về không gian và thời gian, nhưng tình yêu của cháu dành cho bà là mãi mãi. Thản nhiên trong cách thể hiện, nhưng chất chứa cùng những hình ảnh, giọng điệu là cảm xúc về nơi mà mình đã từng gắn bó, những kỉ niệm đã từng trải qua và những nỗi nhớ yêu thương cho bà, để khi tất cả khép lại,  ta chợt giật mình nhận ra, hình như có một giọt nước mắt đang rơi giữa cuộc đời...

Thứ Tư, 18 tháng 8, 2010

Người lái tàu dũng cảm

Vụ tai nạn nghiêm trọng ngày 6.8.2010 giữa tàu Thống Nhất 6 (TN6) với chiếc ô tô tải chở 300 tấn đá ở cung đường sắt Duy Tiên, Hà Nam sẽ còn có thể thảm khốc hơn nếu như không có tấm gương dũng cảm của người lái tàu Trương Xuân Thức. Chiếc ô tô dù đã có cảnh báo vẫn cố tình vi phạm an toàn giao thông, nằm chắn ngang tàu chỉ có 100 mét, vì vậy không thể tránh khỏi va chạm. Trong tình huống hiểm nghèo đó, nếu giật hãm sau thì người lái tàu có thể tránh thương tật cho riêng mình, thế nhưng Trương Xuân Thức đã quyết định giật hãm trước, giữ lại để khởi động cho toàn bộ các toa tự động hãm. Khi tai nạn xảy ra, chỉ có 3 toa tàu không có người bị đổ, gồm đầu máy và toa hành lý, toa phát điện. Hơn 300 hành khách an toàn khi không có toa khách nào bị đổ, tuy nhiên bản thân người lái tàu Trương Xuân Thức đã mất một cánh tay trái, cơ đùi phải giập nát, vỡ gót chân và bị hàng chục vết khâu trên mặt, vẫn nằm mê man trong bệnh viện.
Hành động dũng cảm xả thân này đã giảm thiểu tối đa thiệt hại cho tài sản và tính mạng của 300 người. Chỉ một khoảnh khắc để quyết định, anh Thức đã chọn lựa dứt khoát để tránh một tai nạn thảm khốc do quán tính lớn của đoàn tàu bị cản lại do va chạm với ô tô tải.

Ghi lại câu chuyện này, chúng ta cùng suy ngẫm về những vẻ đẹp, gương sáng đời thường vẫn còn nhiều quanh ta. Anh Thức là một người lính xuất ngũ về làm lái tàu, 20 năm trong nghề gia đình anh vẫn ở trong khuôn viên ngôi nhà chỉ 20m2, con còn đang học Cao đẳng... Có nhiều lý do để anh có thể tự bảo vệ mình! Thế nhưng... Từ câu chuyện, có thể gợi cho chúng ta về lương tâm nghề nghiệp, về tinh thần trách nhiệm, về đức hy sinh. Một con người như anh Trương Xuân Thức đáng trân trọng biết bao. Xin được gọi anh là anh hùng giữa đời thường!
T.H.N
(Xem thêm thông tin: http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/394755/Quen-than-minh-cuu-doan-tau.html )

Chủ Nhật, 15 tháng 8, 2010

Học trực tuyến edu.goonline.vn

Trang web học trực tuyến edu.goonline.vn dùng tài khoản của VTC nằm trong dự án lớn go.vn hướng tới hình thành một mạng xã hội. Trong đợt tập huấn giáo viên chuyên vừa qua ở Đà Nẵng, TS. Lê Thống Nhất đã giới thiệu dự án này. Hy vọng trang này sẽ phát triển phong phú giúp các em có thêm nhiều tài liệu học tập.
Xin giới thiệu một tài liệu từ website này - THIẾT KẾ BÀI GIẢNG NGỮ VĂN 12 NÂNG CAO do TS. Nguyễn Văn Đường chủ biên:

Thứ Ba, 3 tháng 8, 2010

Một kho tài liệu cần tìm hiểu

Trang http://tailieu.vn là một trang tập hợp khá phong phú các tài liệu học tập nghiên cứu.Xét về độ tin cậy thì có thể bảo đảm bằng tên miền tiếng Việt. Để có thể tải tài liệu, cần phải đăng ký thành viên. Không những thế có thể tham gia các trò chơi trắc nghiệm trực tuyến để nâng cao trình độ. Tại sao chúng ta không thử?

Thứ Bảy, 24 tháng 7, 2010

Bình giảng CHIỀU TỐI - HỒ CHÍ MINH

Đề luyện tập: Bình giảng bài thơ Mộ (Chiều tối) của nhà thơ Hồ Chí Minh.
BÀI VIẾT THAM KHẢO:
            Những năm 40 của thế kỉ này, trên thi đàn văn học lãng mạn vang lên những vần thơ nặng trĩu buổi chiều của Huy Cận: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc – Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa…”. Những câu thơ của chàng thanh niên trí thức tiểu tư sản đã mang theo tâm trạng bất lực của cả một lớp người đang ngột ngạt giữa xã hội đen tối Việt Nam dưới ách ngoại bang. Cũng trong một buổi chiều giữa nơi đất khách Trung Hoa, một người tù “tay bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang vòng xích” đã để cảm xúc trải ra cùng không gian bao la, làm nên những vần thơ tuyệt tác, vừa cổ kính, vừa rất trữ tình thư thái:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng
                        (Chiều tối – bản dịch)
Giờ đây, khi soi mình trong ánh hồng bếp lửa năm xưa ấy, ta chợt khám phá ra vóc dáng của một Con Người: Bác Hồ kính yêu!
Buổi chiều đã đi vào bao áng thơ cổ kim. Khung cảnh chiều về tối thường gợi nên chất thơ đặc sắc, nỗi buồn lắng đọng, suy tư về nhân sinh. Nhưng hoàn cảnh của Bác khi viết bài thơ khá đặc biệt, từ thân phận người tù đã vượt qua ám ảnh của cảnh đi đày. Cảm xúc trên đường đi của Bác đã lộ rõ cốt cách của thi nhân – chíên sĩ Hồ Chí Minh. Giả sử có một học giả nào đó làm một phép so sánh giữa bài thơ này của Bác với những bài thơ lừng danh của Lí – Đỗ, của Thôi Hiệu, e cũng khó  phân biệt rõ, bởi bài thơ đã thấm đẫm phong vị Đường thi! Nhưng đọc thật kỹ, chúng ta vẫn nhận ra phong cách rất riêng – phong cách Hồ Chí Minh, rắn rỏi mà uyển chuyển, hiện thực mà trữ tình, cổ điển mà hiện đại.
Hiện thực của bài thơ cũng được mở ra theo lối cấu tứ  Cảnh – Tình quen thuộc của thơ Đường. Thiên nhiên làm nền cho tâm trạng:
Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không)
Thiên nhiên mở ra vẫn là những nét quen thuộc của thi ca cổ điển: cánh chim – chòm mây – bầu trời, với nhịp điệu thời gian như lắng trầm xuống cùng với ám ảnh của buổi chiều. Ngày xưa Lí Bạch từng mô tả không gian “Chúng điểu cao phi tận – Cô vân độc khứ nhàn”, và chúng ta có thể nhận ra nét quen thuộc ấy trong những câu thơ này của Hồ Chí Minh. Tất cả như lắng đọng lại trong một thiên nhiên u trầm. Cảm nhận không gian cũng giống như các nhà thơ xưa, tạo ra sự đối lập giữa cánh chim, chòm mây với bầu trời rộng lớn! Dường như không gian được tạo ra từ sự đối lập như vậy cũng đã gợi sẵn một nỗi buồn trong cảnh. Cánh chim mỏi, chòm mây côi như mang theo nỗi niềm của người tù nơi đất khách quê người!Nhưng ngay trong cách nhìn cảnh, ta cũng nhận ra thái độ ung dung của con người. Hướng về bầu trời, cánh chim và chòm mây, Bác đã thật sự hoà hồn mình vào cảnh vật. Thần thái của hai câu thơ nằm ngay trong hai chữ “mạn mạn” vừa mang nét quen thuộc của thơ Đường, vừa bộc lộ cái ung dung trong xúc cảm của con người. Buổi chiều ấy dường như mọi hoạt động cũng lắng xuống, đám mây lơ lửng, lững lờ, man mác giữa không gian tạo thành độ sâu của khung cảnh. Rất tiếc bản dịch thơ đã không thể lột tả được khoảnh khắc rất thi sĩ của Bác trong điệp từ “mạn mạn” này! Khi hướng lòng lên với bầu trời, Bác cũng đã xóa nhoà ranh giới giữa người tù và một khách tự do. Tinh thần “tự do lãm thưởng vô nhân cấm” (Tẩu lộ) chính là ở điểm này.
Ngỡ như cảnh vật ấy sẽ gợi lên những nỗi buồn nhân sinh, ám ảnh thân phận thế nhưng bài thơ đã đem đến cho ta một cảm nhận hoàn toàn khác với các nhà thơ xưa:
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng
Như một điều thường thấy trong thơ Bác, hình ảnh ở hai câu thơ này chính là sự thể hiện mối quan tâm của Bác đến cuộc sống xung quanh! Trong những trường hợp như thế này, bản dịch thường tỏ ra bất lực. Bác rất mạnh dạn trong sử dụng từ địa phương Quảng Đông “bao túc” (ngô). Không những thế, hai câu còn thể hiện sự quan sát của Bác với hành động của con người trong không gian chiều tối. Điểm son trữ tình của bài thơ chính là chỗ này! Con người không phải chịu sự chi phối của cảnh vật như thơ cổ, mà con người đem lại sức sống cho khung cảnh chiều tối. Đặc biệt, đó là sự gắn kết “thiếu nữ” – “sơn thôn” đã cho ta thấy cảm xúc, hồn thơ của Bác. Người luôn luôn phát hiện mối quan hệ hoà hợp giữa người và cảnh vật. Không phải ngẫu nhiên có sự kết hợp này. Xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn nhờ sự xuất hiện của thiếu nữ. Và thiếu nữ xuất hiện không hề đơn độc lẻ loi mà gắn với cộng đồng “sơn thôn” của mình. Đó là cách nhìn đặc biệt thường gặp trong thơ Bác:
Chùa xa chuông giục người nhanh bước
Trẻ dắt trâu về tiếng sáo bay
                        (Hoàng hôn)
Hay:
Làng xóm ven sông đông đúc thế
Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh
                        (Giữa đường đáp thuyền đi huyện Ung)
Chính vì tấm lòng Bác luôn hướng về con người, yêu mến con người nên ở đâu có sự xuất hiện của con người, một dấu hiện của cuộc sống là Người tìm thấy niềm vui. Dẫu rằng trong bài thơ chỉ là công việc xay ngô bình thường, nhưng Người đã lặng lẽ quan sát từ lúc “ma bao túc” (xay ngô) cho đến khi “bao túc ma hoàn” (ngô xay xong). Rõ ràng, người thiếu nữ ấy hiện ra trong công việc hết sức bình thường, nhưng ta nhận ra trong cái nhìn của Bác một thái độ trân trọng đặc biệt, nhờ đó vẻ đẹp của sức sống con người, của cuộc đời càng lộ rõ hơn.
Cũng từ tình cảm hướng về cuộc sống, bài thơ đã có một từ kết làm bừng sáng cả bài thơ. Cái độc đáo của tứ thơ cũng chính là điểm này: nói về chiều tối bằng sự xuất hiện của ánh sáng, không nói về thời gian mà người đọc lại cảm nhận rõ một khoảng thời gian từ chiều về tối! Bài thơ không khép lại bằng cảm giác về bóng đêm mà lại chan hoà ánh sáng, ánh sáng tạo nên từ cuộc sống đời thường giản dị. Ánh sáng nổi bật trong đêm tối, như là biểu tượng của sự sống. Ánh sáng ấy gắn với màu ưa thích của Bác – màu hồng. Ánh hồng của bếp lửa, ánh hồng trên gương mặt người hay màu hồng của tấm lòng lạc quan yêu đời của Bác? Màu hồng không chỉ mang ý nghĩa tượng trưng đặc biệt trong riêng bài thơ này mà trong nhiều bài thơ khác cũng thể hiện một ý nghĩa tương tự. Đó là màu sắc của lòng tự tin, ung dung và lạc quan hướng về tương lai.
Nói về cảnh chiều tối, Bác đã quên đi thân phận người tù, vượt lên hoàn cảnh. Ta lại gặp chủ thể trữ tình đằm thắm được bộc lộ kín đáo qua bài thơ. Bài thơ thể hiện một nét độc đáo trong phong cách thơ Hồ Chí Minh, “từ tư tưởng đến hình tượng thơ luôn luôn có sự vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai” (Nguyễn Đăng Mạnh). Ngọn lửa của con người làm điểm hội tụ, là trung tâm toả ấm nóng và niềm vui ra không gian rộng lớn. Đến thơ Bác, tư cách chủ thể của con người được phản ánh rõ nét và giàu sức sống, vừa cổ điển vừa lãng mạn.
Ta nhận ra trong nỗi buồn, niềm vui của Bác phẩm chất của một vĩ nhân: rất bình thường, giản dị nhưng mỗi câu thơ toả sức ấm của một ý chí mãnh liệt và sáng bừng lên hồng bao thế hệ, sự hài hoà giữa tình cảm và tinh thần thép đã làm nên những vần thơ sâu sắc thâm trầm./.
                                                                                    Trần Hà Nam