CHÀO MỪNG

Chào mừng bạn đến với blog Học Văn của học sinh trường THPT Chuyên Lê Quý Đôn Bình Định - Mọi thông tin liên hệ, đóng góp bài vở, xin gửi về vankhoa11@gmail.com hoặc liên hệ trực tiếp với lớp trưởng Chuyên Văn khoá 11 Đỗ Lê Bảo Duyên - LPHT Trần Thái Diễm Chi

Thứ Sáu, 5 tháng 11, 2010

Tư liệu Nguyễn Bính

Nguyễn Bính và hành trình đi tìm cái đẹp
Trần Thị Trâm
Trong Phong trào thơ Mới, “Xuân Diệu là người “mới nhất”, Hàn Mạc Tử “lạ nhất” và Nguyễn Bính “quê nhất” (1). Chính cái hương quê đậm đà ấy đã làm nên sức hấp dẫn của thơ ông:
Em là con gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già
Lòng trẻ còn như cây lụa trắng
Mẹ già chưa bán chợ làng xa
(Mưa xuân)
Dù trong giai đoạn nào, thơ Nguyễn Bính cũng đạt kỷ lục về xuất bản và vẫn chiếm được nhiều cảm tình của độc giả. Ngay cả hôm nay, sau những giờ làm việc căng thẳng, nhiều người lại lặng lẽ tìm về với những vần thơ trong lành, thánh thiện của ông như một sự ngơi nghỉ cho tâm hồn trở nên thanh tĩnh, để được sống lại trong khung cảnh xóm thôn yên ấm hòa mục, trong bầu khí quyển của văn hóa dân gian nghìn đời và được ru lòng mình trong điệu hồn dân tộc:
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê
(Chân quê)
Giống như cảm giác hạnh phúc thơ trẻ của ngày hội trường, ta lại được trở về với những năm tháng của thời niên thiếu thần tiên:
Những buổi học về không có nón
Đội đầu chung một lá sen tơ
(Trường huyện)
Bạn đọc có cảm tưởng rằng: dường như những vần thơ của thi nhân đã được dệt từ hương hoa đồng nội, từ hương chanh, hương bưởi, từ sự ấm áp của thứ trầu quế thơm nồng, từ sắc tầm xuân tím biếc…, như được chiết xuất từ bao trầm tích văn hóa của một vùng quê yêu dấu. Tất cả trở nên sâu lắng trong thứ ánh sáng thông tuệ và minh triết dân gian, nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp nguyên sơ, tạo nên một sức quyến rũ độc đáo vừa gần gụi vừa cao khiết. Vẻ đẹp đó huyền ảo, như mơ như thực. Trong sương khói bảng lảng của cõi mơ ấy, người ta thấy một mình Nguyễn Bính âm thầm, lặng lẽ, ngậm ngùi, đơn côi làm cuộc hành hương đi tìm cái đẹp đã bị đánh mất.
Tất cả những bài thơ hay nhất của tác giả đều được cấu trúc theo cảm hứng này. Cùng thời Nguyễn Bính, Nguyễn Tuân cũng đặt cược cả đời mình vào mục đích đi tìm cái dư âm, dư ảnh của một thời đã qua trong niềm hoài niệm khôn nguôi. Nhưng trong khi thi sĩ đồng quê Nguyễn Bính thiên về kiếm tìm vẻ đẹp dung dị của dân gian thì Nguyễn tiên sinh lại ráo riết đi săn lùng cái đẹp kiêu sa của văn hóa bác học với những nét đẹp kỳ thú sang trọng mang đậm màu phú quý: nào nhâm nhi chén trà sương buổi sớm, ngắm dò lan nở lúc trăng lên, thậm chí cả cái đẹp rờn rợn của cảnh bữa tiệc máu hay chém treo ngành… Dĩ nhiên trong mỗi nền văn hóa có những quan niệm nghệ thuật riêng. Một bên là vẻ đẹp tươi mát đầy sức sống phồn thực của nàng thôn nữ yếm thắm hoa đào, còn bên kia là vẻ khuê các của người con gái chốn lầu son gác tía. Là yếu tố nội sinh, so với văn hóa bác học, văn hóa dân gian mang đậm bản sắc dân tộc hơn nhiều, như một mẫu số chung của cả cộng đồng. Vì vậy ảnh hưởng của nó tới xã hội rất lớn. Điều này cũng góp phần quan trọng vào việc cắt nghĩa tính đại chúng của thơ Nguyễn Bính.
Sau hơn sáu mươi năm, đọc lại những tập thơ trước cách mạng của ông, chúng ta không khỏi giật mình, ngưỡng mộ: chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn mà thi nhân đã dâng tặng cho đời cả thảy 7 tập thơ - bẩy tập thơ tinh huyết trong vòng 3 năm: Lỡ bước sang ngang (1940), Tâm hồn tôi (1940), Hương cố nhân (1941), Một nghìn cửa sổ (1941), Người con gái ở lầu hoa (1942), Mây Tần (1942), Mười hai bến nước (1942). Trong số mấy trăm bài thơ ấy có bao nhiêu bài đã trở thành những câu thơ trong trí nhớ rồi bất tử. Những con số biết nói đó đã đủ minh chứng cho bút lực phi thường của một tài năng độc đáo trong cái nền chung của cuộc phục hưng văn hóa dân tộc đầu thế kỷ XX. Đó là một ẩn số đang cần lời giải đáp. Cũng như nhiều cây bút đương thời, ông ít có điều kiện học hành. Nhưng người trí thức bình dân Nguyễn Bính đã sớm hội tụ được mã di truyền của cả hai dòng văn hóa, song gien trội của thi nhân lại thuộc về văn hóa mẹ. “Tiếp thu trọn vẹn tinh hoa của nền văn minh thôn dã, nền văn hóa xóm làng” (2), là nguyên khí của đất trời hội tụ, Nguyễn Bính đã trở thành một thần đồng thơ vùng quê nghèo nước mặn đồng chua. Ngoài ảnh hưởng của cuộc giao lưu văn hóa Đông Tây thì điều cốt yếu làm nên một Nguyễn Bính tài hoa chính là những giá trị truyền thống. Cội nguồn dân tộc đã nâng cánh cho ông, giúp ông dễ dàng băng mình bay lên hòa cùng nhân loại, làm tâm hồn thi nhân thăng hoa rồi xuất thần mà có được những câu thơ tinh tế, mang phong cách thời đại: tân kỳ nhưng lại không hề gợn cảm giác bị thất cước:
Đã thấy xuân về với gió đông
Với trên màu má gái chưa chồng
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn giời đôi mắt trong
(Xuân về)
Nhưng khác với nhiều nhà thơ cùng trang lứa, Nguyễn Bính chỉ tập trung tinh lực đi tìm chất thơ của cuộc đời, tách chúng khỏi cuộc sống cơm áo nhiều nhiễu sự đa đoan. Dường như ông chỉ tiếp cận đối tượng từ một điểm nhìn nghệ thuật duy nhất trong chiều sâu văn hóa. Dưới thứ ánh sáng tinh khiết ấy, tất cả những hình ảnh của cuộc sống nơi thôn dã mộc mạc, quê kiểng được tinh lọc và chưng cất; qua tâm hồn nhạy cảm của người thơ Nguyễn Bính, chúng đã trở thành những bức mẫu họa về cùng một đề tài vĩnh cửu - đề tài văn hóa, tạo thành một dòng chảy đầy sức sống phồn thực.
Chú tâm đi tìm lại hình hài đất nước qua những giá trị thuần Việt trong quá khứ, ống kính của thi nhân luôn luôn chỉ dọi về phía làng quê (nếu có nói đến thị thành thì cũng chỉ với mục đích đối sánh để thấy mặt trái của văn hóa thị thành mà thôi), nơi được coi là một pháo đài bền vững, là mảnh đất lưu giữ nhiều mã di truyền văn hóa dân tộc nhất. Làng quê của Nguyễn Bính là làng quê văn hóa. Ông chỉ đặc biệt quan tâm đến phần con người văn hóa trong mỗi con người và những khoảnh khắc văn hóa trong cuộc đời từng nhân vật. Đọc thơ Nguyễn Bính ta không bắt gặp những người nông dân chân lấm tay bùn mà chỉ thấy những cô gái trong khung cửi e ấp, trinh nguyên, anh lái đò đa cảm với những giấc mơ trở thành quan trạng, cô thiếu nữ ngây thơ đang mải mê bắt bướm ngoài vườn, đôi bạn học trò chung đầu chiếc lá sen tơ ướp nhị hờ, nàng sơn nữ hái mơ thơ thẩn trong rừng chiều êm ái, những cặp trai gái tương tư hò hẹn nơi đầu đình lúc đỏ đèn, một cô dâu thẹn thùng nức nở trong ngày hạnh phúc, người hàng xóm xinh đẹp với một mối tình mong manh vừa giăng tơ, một đôi bạn bé con rủ nhau ra vườn nhặt hoa bưởi chưng nước hoa rồi ngây thơ bôi lên mái tóc… Thoảng gặp là một bậc từ mẫu phong lưu trong ngày tết giữa sân gạch tường hoa, trong ngày cưới cô con gái rượu, hay ngày chớm đông tay mẹ khéo léo luồn chiếc mền bông chăm chút cho sự đủ đầy của cái tổ ấm gia đình rất đỗi nề nếp. Còn hầu như tất cả được bao phủ trong một khí quyển của tình yêu rất nhẹ, rất thanh, không pha màu sắc dục, vừa đủ để đắm say nhung nhớ. Đó là những con người tinh hoa của cộng đồng làng xã, mang trong dòng máu những giá trị văn hóa ngàn đời. Nhưng những biến thiên trong buổi giao thời đã làm cho họ bắt đầu thay đổi:
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều
(Chân quê)
Cuộc đời dâu bể, phũ phàng trong phút chốc đã biến bao “cô Kếu trở thành gái tân thời”, rất nhiều giá trị truyền thống đẹp đẽ đang bị mai một, phôi pha. Trong cuộc xâm thực dữ dội của văn hóa phương Tây những quốc bảo, quốc túy, quốc hồn đang có nguy cơ bị đánh mất. Nặng lòng với dân tộc, không nguôi day dứt, ông đã cố sức gắng gỏi, như người thợ khổ công đãi cát tìm vàng, “bòn mót lại những giá trị của một nền văn hóa dân gian đang vơi cạn”(3). Tháng tháng ngày ngày, Nguyễn Bính cứ một mình đăm đắm mong níu kéo lại cái đẹp trong quá khứ, loay hoay tìm cách bất tử hóa nó để gìn giữ cho muôn đời sau:
Van em em hãy giữ nguyên quê mùa
Như hôm em đi lễ chùa
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh
(Chân quê)
Khát khao tìm lại được những cái đẹp đã bị đánh mất, giữa buổi xô bồ, ông đưa con người về soi ngắm dưới một hệ hình quy chiếu cổ truyền. Nhân vật của ông hầu như chỉ được đặt dưới thứ ánh sáng của tình yêu vĩnh cửu. Trong khi phái cấp tiến đang ráng sức cổ vũ cho lối sống đầy vội vàng, giục giã:
Hãy sát đôi đầu hãy kề đôi ngực
Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài
Những cánh tay hãy quấn riết đôi vai
Và dâng cả tình yêu lên sóng mắt
(Vội vàng - Xuân Diệu)
thì Nguyễn Bính lại thống thiết với những mối tình lãng mạn mang nặng chất platonique kín đáo, nghiêm túc mà theo ông phẩm hạnh quan trọng nhất vẫn là sự thuỷ chung. Một tình yêu duy nhất, lý tưởng- thứ tình yêu sẽ dẫn đến hôn nhân:
Trăng tròn chỉ một đêm rằm
Tình yêu chỉ có một lần mà thôi.
(Ca dao)
Nhưng mơ ước vẫn chỉ là ước mơ, trước cơn lốc phũ phàng của cuộc đời, những điều ông nâng niu tôn thờ đều có nguy cơ bị mờ khuất, rồi băng hoại:
Lòng em như quán bán hàng
Dừng chân cho khách qua đường mà thôi
(Em với anh)
Thất vọng trong tình yêu, chán chường vì thời cuộc, ông trở lại với cái tôi cô đơn mộng mị như một căn bệnh trầm kha của thời đại. Tất cả những mối tình ông dụng công xây đắp đều tan vỡ, mọi mối lương duyên chỉ đi đến kết cục lỡ làng.
Khát khao tìm lại cái đẹp đang có nguy cơ bị đánh mất, ông đã chẳng ngại dấn thân vào chốn giang hồ để tìm lại quê hương: khi lên Hà Nội, khi vào Huế, lúc đến tận Hà Tiên xa lắc... Nghệ thuật giãn cách đã giúp Nguyễn Bính tìm lại được quê hương trong mộng tưởng. Từ sâu thẳm của cõi tâm thức, qua nỗi nhớ da diết, khắc khoải của người xa xứ, quê hương hiện lên trong ánh hào quang với những nét yêu kiều mới lạ. Chỉ còn lại là những giá trị văn hóa đẹp đẽ. Chỉ còn lại là những kỷ niệm êm đềm, thiêng liêng: những hội hè đình đám, tết lễ, cưới hỏi, những điệu hát chèo ngọt ngào duyên dáng, những đêm sáng trăng sáng cả vườn chè… Tiếng hát chèo được ông nói đến nhiều nhất bởi hồn dân tộc thấm đẫm trong từng câu hát... Nam Định quê ông chính là một trong những cái nôi đã sản sinh ra loại hình ca kịch truyền thống dân tộc nhất và cũng dân gian nhất ấy. Những mã di truyền văn hóa vùng đã tuôn chảy trong mỗi tế bào làm ông không những rất say mà còn đàn ngọt hát hay:
- Hội chèo làng Đặng hát thâu đêm
Em mải tìm anh chả thiết xem…
(Mưa xuân)
- Năm qua làng Thượng hát chèo
Giai làng lân cận dập dìu sang xem
(Cô nữ phường chèo)
Dưới góc nhìn văn hóa, khung cảnh trong thơ Nguyễn Bính chỉ là những khung cảnh văn hóa, chỉ xuất hiện toàn những không gian văn hóa như: vườn cây, gốc đa, bến nước, sân đình, nương dâu, bãi mía, mái lá gianh nghèo…
Ông đặc biệt quan tâm đến không gian vườn, một không gian văn hóa, nơi hò hẹn để chín nhớ mười thương. Khung cảnh lao động ở đây là khung cảnh vừa nên thơ, vừa kín đáo khác với lao động vất vả ngoài đồng, tạo nên một chất xúc tác để những mối tình giăng tơ duyên lại bén duyên. Vườn xuất hiện nhiều trong thơ ông, thôi thì đủ loại: nào vườn cam, vườn chè, vườn hồng, vườn chanh, vườn chuối, vườn cau, vườn dâu… và ánh sáng thông tuệ của trái tim đã mách bảo thi nhân có được những thứ vườn rất mơ hồ: vườn cổ tích, vườn Ngự uyển, vườn Thanh, vườn cũ, vuờn hoang, vườn ai, vườn Tiên… trong cõi mơ xưa:
- Có phải ngày xưa vườn Ngự uyển
- Là đây hoa cỏ giống vườn Tiên
- Vườn Thanh qua đấy năm xưa
- Bướm tiên khi đã lạc vào vườn hoang…
Nhiều nhất là vườn hoa, với bao nhiêu là hương sắc đồng nội, mà hoa bao giờ chẳng mang ý vị biểu trưng cho cái đẹp của tự nhiên ban phát. Nào là hoa chanh, hoa bưởi, hoa cau, hoa ngâu, hoa cam, hoa cải, hoa gạo, hoa sen, hoa soan, hoa lài, hoa lý, hoa mơ, hoa mận, hoa hướng dương, hoa cúc, hoa bèo hoang dại và tím ngắt…
- Vườn ai thấp thoáng hoa đào nở
- Ra vườn nhặt những hoa cam rụng
- Xuân đến hoa mơ hoa mận nở
- Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
- Em đi từ độ hoa sen nở
- Sớm đào trưa lý đêm hồng phấn
- Hoa mai trắng xóa dưới chân đồi
Và cơ man nào là bướm: nào bướm trắng, bướm vàng, bướm nâu, bướm đen, bướm chúa… Những cánh bướm xinh đẹp duyên dáng như những vị xứ giả mang bức thông điệp, những lá bùa nhiệm màu của tình yêu thả vào những trái tim tương tư, làm cho người ta thêm nhung nhớ, giận hờn, say đắm:
Qua dậu tầm xuân thấy bướm nhiều
Bướm vàng vàng quá bướm yêu yêu
(Hết bướm vàng)
Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng
Thấy con bướm trắng thường sang bên này
(Người hàng xóm)
Em ạ ngày xưa vua nước bướm
Kén nhân tài mở điệp lang khoa
Vua không kén trạng vua thề thế
Con bướm vàng tuyền đậu thám hoa
(Truyện cổ tích)
Trong bức tranh văn hóa mà Nguyễn Bính vất vả kiếm tìm, người ta không thấy thời gian ba chiều thông thường mà bắt gặp rất nhiều thời gian ảo - thời gian văn hóa: là mùa xuân gắn liền với hội hè đình đám, là mùa thu mơ màng huyền ảo, gợi tình cảm mơ mộng xa xăm, là ngày tết lễ cưới hỏi với pháo đỏ rượu nồng, là những giấc mộng vàng triền miên không dứt… Thời gian luôn được tính bằng cách tính duy cảm, theo chu kỳ, tuần hoàn theo kiểu dân gian phương Đông:
Láng giềng đã đỏ đèn đâu
Hẹn em hễ giập miếng giầu em sang
Thời gian như có mặt khắp nơi: khi ẩn tàng trong sắc hoa, trong vật dụng, trong ngôn ngữ, trong không gian, trong cuộc hẹn hò; khi quy tụ, khi dồn nén ngưng đọng, khi tỏa sáng, lúc lê thê, khi vụt đi như một bóng câu… Bởi vậy, sự khác nhau rất cơ bản giữa thơ ông với những người cùng trường phái như: Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân… là ở chỗ: “một đằng là nghệ thuật tĩnh mang tính chất không gian, một đằng là nghệ thuật động mang tính thời gian. Sức trẻ của thơ Nguyễn Bính là ở sự thay đổi cả những cái dường như không thay đổi”(4). Nhờ thế mà thơ Nguyễn Bính bỗng trở nên mềm mại và có một khả năng diễn tả
Vì vậy, trong cuộc hành hương đi tìm cái đẹp đã bị đánh mất, ông đã tìm thấy biết bao giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc. ánh sáng văn hóa, như một cây đũa thần nhiệm màu giúp Nguyễn Bính đánh thức người nông dân ở mỗi chúng ta thức dậy, chính ông đã tìm thấy một “điều quý giá vô ngần: hồn xưa đất nước”(5). Đó là cái quốc hồn, quốc túy, quốc bảo mà cha ông nhiều thế hệ đã gửi gắm cho lớp cháu con hậu thế với nỗi đau đáu đợi chờ. Trên hành trình đi đến tận cùng của cái đẹp, ông đã gặp dân tộc để có được sự giản dị đến lạ lùng. Và nhờ đi đến tận cùng dân tộc ông đã gặp nhân loại.
Hà Nội, tháng 12-2002
T.T.T
_______________
1. Nguyễn Đăng Điệp, Khối tình lỡ của người chân quê, Tạp chí Văn học số 5, năm 1994, tr.29.
2, 3, 4. Đỗ Lai Thúy, Con mắt thơ, Nxb Lao động, Hà Nội, 1992, tr.99, 111, 112.
5. Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, 1992, tr.334.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét